Ảnh hưởng của vốn xã hội tới hoạt động sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

ThS. VŨ CẨM NHUNG (Khoa Tài chính Ngân hàng - Trường Đại học Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh)

TÓM TẮT:

Tác giả bài viết đã nghiên cứu, thực hiện khảo sát điển hình và điều tra 243 chi nhánh ngân hàng thương mại (NHTM) tại Thành phố Hồ Chí Minh nhằm khám phá cấu trúc của vốn xã hội và hoạt động sử dụng vốn của các NHTM Việt Nam; đồng thời chỉ ra ảnh hưởng của vốn xã hội tới hoạt động sử dụng vốn của các NHTM.

Kết quả cho thấy, vốn xã hội của NHTM sau khi kiểm định thang đo với cấu trúc gồm ba thành phần là vốn xã hội của lãnh đạo, vốn xã hội bên ngoài và vốn xã hội bên trong ngân hàng. Đồng thời vốn xã hội có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sử dụng vốn của NHTM, cụ thể là hoạt động cho vay. Do đó, trong chiến lược phát triển của các NHTM Việt Nam, vốn xã hội là một nguồn lực cần được khai thác (cần được nhận diện, tạo lập, duy trì, phát triển và sử dụng) để nâng cao kết quả sử dụng vốn (cho vay) của ngân hàng.

Từ khóa: Vốn xã hội, ngân hàng thương mại, Thành phố Hồ Chí Minh.

1. Giới thiệu

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) (năm 2015), các NHTM Nhà nước vẫn đang thống trị cả thị phần huy động lẫn thị phần tín dụng, điều này được giải thích do nhiều nguyên nhân, trong đó có thể kể đến việc các NHTM Nhà nước nhiều khi nhận được vốn ưu đãi từ Chính phủ để cho vay các khu vực kinh tế được trợ cấp hoặc theo một chương trình kích thích kinh tế nào đó. Việc lựa chọn ngân hàng để cấp vốn tài trợ cho các khu vực kinh tế hoặc chương trình kích thích kinh tế, (ngoài việc các ngân hàng phải thể hiện được năng lực của mình) thì còn phụ thuộc rất nhiều vào các mối quan hệ cá nhân của lãnh đạo ngân hàng với cá nhân lãnh đạo của cơ quan quản lý nhà nước.

Mặt khác, việc tiếp cận vốn của các NHTM và thụ hưởng sự hỗ trợ từ chính sách còn chưa đồng đều. Đối với các NHTM, nhất là NHTM quốc doanh thì trong việc tiếp cận vốn và tiếp cận thông tin, mối quan hệ giữa cá nhân của lãnh đạo ngân hàng với các cá nhân cơ quan quản lý nhà nước sẽ ảnh hưởng rất lớn. Điều này cũng là phù hợp tại Việt Nam, khi mà các quan hệ cá nhân rất được chú trọng (Nguyễn Văn Thắng, 2015).

Không chỉ là mối quan hệ của bản thân người lãnh đạo, mà tất cả mạng lưới quan hệ xã hội đều quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp nói chung và NHTM nói riêng. Thực tế, các NHTM cũng đã khai thác các mối quan hệ bằng cách đặt ra các chỉ tiêu kinh doanh cao hơn thực lực của nhân viên như nếu năm trước đã đạt chỉ tiêu tăng 20% doanh thu, thì năm nay sẽ yêu cầu đạt 25%, vậy 5% tăng thêm này, tự các nhân viên họ phải vận động sử dụng các mối quan hệ để đạt chỉ tiêu từ cấp trên giao xuống.

Ngoài mặt tích cực, thì các mối quan hệ cũng thể hiện mặt tiêu cực, trong giai đoạn vừa qua, hiện tượng thâu tóm lẫn nhau giữa các ngân hàng, tranh thủ các mối quan hệ với các quan chức để phục vụ cho lợi ích của nhóm cá nhân, gây lũng đoạn thị trường và tâm lý bất an cho các chủ thể tham gia thị trường.

Các mối quan hệ xã hội vừa thể hiện mặt tích cực và tiêu cực, nên hệ thống ngân hàng Việt Nam rất cần một khung lý thuyết để nhận thức rõ sự tác động của các mối quan hệ xã hội tới các hoạt động của ngân hàng đặc biệt là hoạt động sử dụng vốn.

2. Cơ sở lý thuyết và khung phân tích

Vốn xã hội được nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu như Jane Jacob (1961) phân tích vốn xã hội trong mối tương quan của đời sống ở thành phố, Pierre Bourdieu (1986), xây dựng lý thuyết riêng về vốn xã hội, Coleman (1988, 1990), Putnam (1993, 1995, 2000), Nahapiet & Ghosal (1998), định nghĩa vốn xã hội là một dạng nguồn lực tồn tại trong các mạng lưới quan hệ có chất lượng (như sự tín nhiệm, chia sẻ, hỗ trợ) giữa các chủ thể tham gia (Huỳnh Thanh Điền, 2011).

Vốn xã hội của ngân hàng được đề cập đến như là mạng lưới và chất lượng các mối quan hệ của lãnh đạo ngân hàng; mối quan hệ bên ngoài ngân hàng; mối quan hệ bên trong ngân hàng.

- Vốn xã hội của lãnh đạo ngân hàng

Nghiên cứu của các tác giả Cialdini & các cộng sự (2001), Paré & các cộng sự (2008):, McCallum & O'Connell (2009), Truss & Gill (2009), Wharton & Brunetto (2009), có đề cập đến vốn xã hội của lãnh đạo như là chất lượng của các mạng lưới quan hệ của lãnh đạo: tình hữu nghị, hỗ trợ lẫn nhau, quyền lực, sự công nhận của xã hội và sự cam kết với các chủ thể như bạn bè, nhà tư vấn, chính quyền, cơ quan truyền thông. Tuy nhiên, các nghiên cứu này chưa xây dựng được thang đo chất lượng cho từng mạng lưới quan hệ của lãnh đạo, nên không tạo ra được các gợi ý xây dựng, phát triển và đánh giá vốn xã hội của lãnh đạo.

- Vốn xã hội bên ngoài ngân hàng

Các tác giả Landry & cộng sự (2000), Najaran (2006), James S.Boles (2011), Marcinkowska (2012) đã đề cập đến vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp là chất lượng các mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các chủ thể trong mạng lưới chiều ngang (khách hàng, nhà phân phối, nhà cung cấp, các doanh nghiệp trong cùng tập đoàn, đơn vị tư vấn, nghiên cứu, các đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành) và mạng lưới chiều dọc (chính quyền các cấp và các công ty mẹ - con trong cùng tập đoàn). Các nghiên cứu này không xây dựng thang đo chất lượng mối quan hệ cho từng chủ thể trong mạng lưới, mà thay vào đó là đặt ra những câu hỏi đo lường chung về chất lượng quan hệ của doanh nghiệp với các chủ thể bên ngoài. Do đó, đề tài này không sử dụng lại các thang đo vốn xã hội bên ngoài từ những nghiên cứu trên, mà xây dựng thang đo dựa trên chất lượng của các mối quan hệ của ngân hàng với các chủ thể bên ngoài ngân hàng.

- Vốn xã hội bên trong ngân hàng

Có thể nói các tác giả Schenkel & Garrison (2009), Nisbet (2007), Goyal & Akhilesh (2007) và Cheng & các cộng sự (2006) đã tiếp cận vốn xã hội bên trong doanh nghiệp đó là chất lượng các mối quan hệ theo chiều ngang giữa nhân viên lẫn nhau và các bộ phận chức năng lẫn nhau; và các mối quan hệ theo chiều dọc giữa cá nhân cấp trên với cá nhân cấp dưới, giữa bộ phận chức năng cấp trên với bộ phận chức năng cấp dưới. Nhưng các nghiên cứu này chưa xây dựng thang đo vốn xã hội bên trong và chưa đánh giá tác động của chúng đến kết quả các hoạt động của doanh nghiệp. Mặc dù chưa xây dựng thang đo, nhưng việc chỉ ra được cách thức tiếp cận vốn xã hội bên trong doanh nghiệp sẽ được nghiên cứu này kế thừa để phát triển thang đo cho ngành Ngân hàng.

- Hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương mại

Từ lược khảo các lý thuyết cũng như theo Luật Tổ chức tín dụng (TCTD) có thể rút ra hoạt động sử dụng vốn của NHTM gồm: Dự trữ; mua sắm TSCĐ; cấp tín dụng, đầu tư.

- Khung phân tích của nghiên cứu

3. Dữ liệu và phương pháp

Bài viết thực hiện gồm hai giai đoạn: (1) xây dựng thang đo và mô hình lý thuyết; và (2) kiểm định thang đo và mô hình lý thuyết cho trường hợp điển hình. Giai đoạn 1 áp dụng phương pháp phỏng vấn chuyên sâu. Giai đoạn 2, kế thừa mẫu của giai đoạn 1, cỡ mẫu 243 chi nhánh NHTM Việt Nam, đối tượng là giám đốc, phó giám đốc các chi nhánh NHTM. Dữ liệu thu thập được sử dụng để đánh giá thang đo bằng công cụ hệ số tin cậy (Cronbachs alpha), phân tích nhân tố khám phá (EFA) và phân tích nhân tố khẳng định (CFA) để đánh giá độ tương thích với dữ liệu, tính đơn nguyên, giá trị phân biệt, giá trị hội tụ để điều chỉnh mô hình nghiên cứu. Cuối cùng là kiểm định mô hình lý thuyết bằng công cụ mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) để rút ra kết luận về tác động của vốn xã hội tới hoạt động sử dụng vốn của NHTM.

Bài viết kết hợp lược khảo lý thuyết và nghiên cứu định lượng để xác định vốn xã hội của ngân hàng có tác động dương đến kết quả hoạt động sử dụng vốn của NHTM. Do đó, giả thuyết được đặt ra như sau:

H1: Tăng cường vốn xã hội tác động đồng biến với việc gia tăng kết quả họat động sử dụng vốn.

4. Kết quả nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu định tính cho thấy vốn xã hội của ngân hàng là thang đo đa hướng bậc ba. Thang đo này gồm ba thành phần bậc hai là vốn xã hội của lãnh đạo, vốn xã hội bên trong và bên ngoài ngân hàng. Thành phần của vốn xã hội lãnh đạo gồm 4 thành phần bậc ba là mạng lưới bạn bè, đồng nghiệp, đối tác kinh doanh, quan chức thuộc cơ quan quản lý Nhà nước. Thành phần của vốn xã hội bên ngoài gồm 5 thành phần bậc ba là khách hàng, đối tác kinh doanh, chính quyền các cấp, các hiệp hội, cơ quan truyền thông. Thành phần của vốn xã hội bên trong gồm 2 thành phần bậc ba là sự hợp tác các phòng ban chức năng và sự hợp tác giữa các cá nhân trong ngân hàng.

Đối với hoạt động sử dụng vốn của NHTM, thì hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng. Ở Việt Nam, trong hoạt động tín dụng, hoạt động truyền thống và chủ yếu của các ngân hàng vẫn là cho vay (chiếm khoảng 70 - 80% hoạt động của ngân hàng). Chính vì vậy, đa số các ngân hàng thường có xu hướng tập trung vào hoạt động cho vay, kênh chính để tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng (Nguyễn Thị Mỹ Linh & Nguyễn Thị Ngọc Hương, 2015). Bên cạnh đó, cho vay cũng là hoạt động liên quan đến các mối quan hệ xã hội nhiều hơn so các hoạt động còn lại. Do đó, kết quả hoạt động sử dụng vốn sẽ là hoạt động cho vay như mong đợi.

Kết quả ước lượng SEM cho thấy, mô hình lý thuyết sau khi hiệu chỉnh đạt mức độ tương thích với dữ liệu thị trường, với: 2(84)=178,920 (P=0,000); CFI= 0,923, RMSEA= 0,080 và CMIN/df = 2,130. Kết quả mô hình được tổng kết ở Hình 2.

Kết quả ước lượng đã chuẩn hóa được biểu diễn ở trên cho thấy giả thuyết trên được chấp nhận ở mức ý nghĩa 1%.

Giả thuyết H1 tăng cường vốn xã hội tác động đồng biến với việc gia tăng kết quả họat động sử dụng vốn, được chấp nhận ở mức ý nghĩa 1% (hệ số hồi quy đã chuẩn hóa 0,325).

Phân tích ảnh hưởng của vốn xã hội tới hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng

Bảng 2 trình bày kết quả tính toán từ mô hình SEM về tác động trực tiếp của vốn xã hội vào kết quả hoạt động sử dụng vốn trong ngân hàng.

Vốn xã hội tác động trực tiếp đến hoạt động sử dụng vốn thể hiện qua việc chấp nhận giả thuyết H1 với hệ số hồi quy chuẩn hóa là 0,325. Sự tác động này được giải thích như sau:

Thứ nhất, mối quan hệ cá nhân của người lãnh đạo giúp ngân hàng dễ dàng hơn trong hoạt động cho vay. Cụ thể thông qua mối quan hệ với bạn bè, đối tác kinh doanh, sẽ tạo nguồn khách hàng tiềm năng cho ngân hàng trong tương lai cũng như cơ hội hợp tác với các đối tác mới. Trong mối quan hệ với đồng nghiệp, khi lãnh đạo thiết lập tốt mối quan hệ với họ sẽ kích thích tinh thần làm việc và phát huy được năng lực của nhân viên, từ đó giúp hiệu quả và chất lượng công việc tăng cao, tạo niềm tin và sự hài lòng của khách hàng, góp phần đẩy mạnh hoạt động cho vay của ngân hàng.

Thứ hai, sự hợp tác giữa các cá nhân và các phòng ban trong ngân hàng sẽ giúp cho hệ thống ngân hàng được vận hành tốt, mang lại hiệu quả cao cho ngân hàng cũng như tăng sự hài lòng của khách hàng từ đó củng cố lòng trung thành của khách và thu hút khách hàng tiềm năng.

Thứ ba, do chính sự uy tín của ngân hàng sẽ thu hút các đối tác kinh doanh, các nhà đầu tư, các khách hàng tiềm năng trong tương lai, từ đó ảnh hưởng đến kết quả các hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là hoạt động sử dụng vốn. Có thể nói, trong bất kỳ hoạt động nào thì thông tin vẫn đóng vai trò chủ chốt trong thành công của một doanh nghiệp, trong ngành Ngân hàng cũng vậy, mối quan hệ của ngân hàng với chính quyền các cấp, với cơ quan truyền thông có thể giúp ngân hàng tiếp cận sớm nguồn thông tin và có sự chuẩn bị trước từ đó nắm bắt các cơ hội kinh doanh và xác lập vị trí của mình trên thương trường.

5. Kết luận và một số gợi ý chính sách

Thông qua kết quả nghiên cứu cho thấy vốn xã hội là một nguồn lực có tác động ý nghĩa đến hoạt động sử dụng vốn của NHTM (hoạt động cho vay) và trong chiến lược phát triển của NHTM, cần đưa nguồn lực này vào để khai thác (cần được nhận diện, tạo lập, duy trì, phát triển và sử dụng) để nâng cao kết quả sử dụng vốn (cho vay) của ngân hàng. Do đó, cần có một khung phân tích để có thể tiếp cận, đo lường vốn xã hội thông qua các mục tiêu cụ thể, phân tích trên ba khía cạnh: vốn xã hội của lãnh đạo, vốn xã hội bên ngoài và bên trong ngân hàng.

Ngoài ra, để chiến lược phát triển vốn xã hội phục vụ cho hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng được thành công, cần phải tập trung vào nâng cao chất lượng mạng lưới mối quan hệ của lãnh đạo, bên ngoài và bên trong ngân hàng. Các mối quan hệ này cần được nuôi dưỡng, phát triển và sử dụng trong hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng, cụ thể là hoạt động cho vay.

Vốn xã hội ngoài việc tạo ra hiệu ứng tích cực, vẫn còn những hiệu ứng tiêu cực cho ngành Ngân hàng, do đó Chính phủ cần có các chính sách để hạn chế hiệu ứng tiêu cực cho ngành Ngân hàng, như: ban hành các văn bản hướng dẫn, quy trình tiếp cận vốn ưu đãi chặt chẽ; xây dựng các tiêu chí sàng lọc, khi lựa chọn các ngân hàng để cấp vốn tài trợ cho các khu vực kinh tế hoặc chương trình kích thích kinh tế phải đảm bảo đủ năng lực, quy mô đáp ứng các tiêu chí đã đưa ra, tạo sự công bằng cho tất cả các NHTM.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Hoai Trong Nguyen & Dien Thanh Huynh (2012). The Contribution of Social Capital Into The Activities of Real Estate Companies in VietNam, Journal of International Business Research, Volume 11, Special Issue, Number 3, 2012, ISSN 1544-0222, pp 53-69.

2. Theory of Research for the Sociology of Education, 241-258, New York: Greenwood.

3. Burt, Ronald, 2000 Cấu trúc mạng của vốn xã hôi Trong Robert Sutton và Barry Staw, eds. Nghiên cứu hành vi tổ chức, Greenwich, CT:JAI Press, tr 345-423.

4. Cialdini R. B., Wosinska W., Barrett D. W., Butner J., & Gornik-Durose, M. (2001), “The differential impact of two social influence principles on individualists and collectivists in Poland and the United States”. Website http://mba.tuck.dartmouth.edu/pages/faculty/petia.petrova/Petrova%20Web%20site%20material/Personality%20and%20Individual%20Differences%20-%20Final.pdf

5. Woolcock M. & Narayan. D. (2000), “Social Capital: Implications for Development Theory, Research, and Policy”. Final version submitted to the World Bank Research Observer. To be published in Vol. 15(2), pp.225-249. http://www.oecd.org/dataoecd/5/13/1824913.pdf .

6. Vũ Cao Đàm, 2013, Vốn xã hội cho phát triển KH&CN Việt Nam, Tạp chí Tia sáng.

7. Nguyễn Văn Thắng, 2015, Một số lý thuyết đương đại về quản trị kinh doanh: Ứng dụng trong nghiên cứu, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân.

THE IMPACTS OF SOCIAL CAPITAL ON THE COMMERCIAL

BANKS CAPITAL USING ACTIVITY: CASE STUDY OF

COMMERCIAL BANKS LOCATED IN HO CHI MINH CITY

Master. VU THI CAM NHUNG

Faculty of Finance and Banking, Industrial University of Ho Chi Minh City

ABSTRACT:

This research was conducted to explore the social capital structures of 243 branches of commercial banks located in Ho Chi minh City and the capital using activities of Vietnamese commercial banks. The research also determined the impacts of the social capital structures on the using capital of Vietnamese commercial banks. The results of this research showed that the social capital structure of these branches after being measured by the scale has three components, namely the social capital of leaders, the external social capital and the internal social capital. The results also indicated that the social capital has direct impacts on the capital using activities of Vietnamese commercial banks, particularly lending. As a result, the social capital should be strategically considered one of the most important sources for operations of Vietnamese commercial banks in order to enhance the effectiveness of lending activities of these banks.

Keywords: Social capital, commercial banks, Ho Chi Minh City.

Xem toàn bộ ấn phẩm Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 04 + 05 tháng 04/2017 tại đây