Bảo hộ thương mại và giải pháp cho xuất khẩu của Việt Nam

LÊ HOÀNG QUỲNH (Học viên cao học ngành Quản trị Kinh doanh - Quản lý - Trường Đại học Kwansei Gakuin - Nhật Bản)

TÓM TẮT:

Bài viết này nhằm mục đích phân tích bản chất của bảo hộ thương mại, nguyên nhân và tác động của chính sách này đối với xuất khẩu của các nước đang phát triển như Việt Nam. Tác giả áp dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp các công trình nghiên cứu trước đây, phân tích thực trạng xuất khẩu Việt Nam trong giai đoạn 2010 - 2019 và kết hợp với phỏng vấn các chuyên gia trong lĩnh vực thương mại quốc tế và xuất khẩu. Kết quả nghiên cứu đánh giá xu thế quay lại và tăng cao của các chính sách bảo hộ thương mại trên thế giới từ sau các cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997 và 2008. Trong thời gian qua, các chính sách bảo hộ tại các thị trường xuất khẩu như Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU đã tạo ra sức ép và có những tác động đáng kể đến xuất khẩu Việt Nam. Trên cơ sở kết quả phân tích, tác giả đề xuất một số giải pháp đối với các doanh nghiệp xuất khẩu và Chính phủ nhằm thúc đẩy xuất khẩu bền vững, vượt qua các chính sách bảo hộ thương mại của các thị trường trọng điểm trong thời gian tới.

Từ khóa: Tự do thương mại, bảo hộ thương mại, rào cản, xuất khẩu, chính sách, Việt Nam.

1. Đặt vấn đề

Bảo hộ thương mại được các quốc gia sử dụng nhằm mục đích kích thích hoạt động sản xuất kinh doanh nội địa, kích thích kinh tế trong nước, đồng thời tránh thâm hụt thương mại quốc tế. Hiện nay, từ sau các cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế năm 1997 và 2008, bảo hộ thương mại đang có xu hướng quay lại và diễn ra mạnh mẽ hơn (Fajgelbaum và cộng sự, 2020), có thể cản trở hệ thống thương mại toàn cầu cũng như đe dọa đà phục hồi tăng trưởng của kinh tế thế giới và thậm chí có thể làm đảo ngược tiến trình toàn cầu hóa (Roye, 2018).

Trong bối cảnh đó, xuất khẩu của Việt Nam vẫn khẳng định được vị thế và những giá trị riêng. Theo Tổng cục Hải Quan, năm 2019, tổng giá trị xuất khẩu của nước ta đạt 264,19 tỷ USD (tăng 8,4%) so với cùng kỳ năm 2018 và mang lại 9,94 tỷ USD thặng dư cho quốc gia. Tính cả giai đoạn 2015-2019, xuất khẩu của Việt Nam có sự tăng trưởng tốt về giá trị, nhưng tốc độ tăng trưởng thiếu ổn định. Tuy nhiên, theo báo cáo của Bộ Công Thương (2018), hàng loạt mặt hàng Việt Nam xuất khẩu bị đánh thuế cao bao gồm nhôm, gỗ, lâm sản, túi dệt LWS, thép, pin năng lượng, máy giặt,... đe dọa trực tiếp đến xuất khẩu bền vững của nước ta.

Vì những lý do trên, tác giả thực hiện nghiên cứu này nhằm mục đích tìm hiểu lý luận, bản chất và tác động của bảo hộ thương mại đến xuất khẩu của các nước đang phát triển như Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp giúp doanh nghiệp phòng tránh những rủi ro và vượt qua các rào cản bảo hộ thương mại, thúc đẩy xuất khẩu Việt Nam phát triển một cách bền vững.

2. Cơ sở lý luận

2.1. Tổng quan về bảo hộ thương mại

Bảo hộ thương mại bao gồm các chính sách bảo hộ giao thương hàng hóa của chính phủ nhằm hỗ trợ các nhà sản xuất trong nước trước những nhà sản xuất nước ngoài trong một ngành công nghiệp riêng lẻ bằng cách làm tăng giá sản phẩm hàng hóa ngoại nhập, đồng thời làm giảm giá của các sản phẩm trong nước và nhằm hạn chế sự tiếp cận của hàng hóa ngoại nhập bằng cách tiếp thị sản phẩm quốc nội” (Abboushi, 2010, trang 387). Bản chất của bảo hộ thương mại là việc bảo vệ hàng hóa quốc nội (không bao gồm dịch vụ, sản phẩm đầu tư hay sản phẩm sở hữu trí tuệ) bằng cách hạn chế nhập khẩu khi nhập khẩu các mặt hàng này gia tăng nhanh gây đe dọa thiệt hại nghiêm trọng cho các mặt hàng quốc nội.

Hiện nay, một số biện pháp bảo hộ thương mại phổ biến được áp dụng ở các quốc gia, gồm (Nguyễn Hoàng Quy và cộng sự, 2016):

- Thứ nhất, tiếp tục áp dụng thuế đối với các mặt hàng ngoại nhập.

- Thứ hai, áp dụng hạn ngạch trần trên số lượng hàng hóa ngoại nhập được bán ở thị trường trong nước bằng các trở ngại về pháp lý trong việc cấp phép cho sản phẩm ngoại nhập.

- Thứ ba, đề ra các trở ngại pháp lý cho các sản phẩm ngoại nhập bằng cách đề ra những phân loại và tiêu chuẩn khắt khe cho các mặt hàng ngoại nhập.

- Thứ tư, hỗ trợ cho các mặt hàng quốc nội bằng cách trợ giá và giảm thuế.

- Thứ năm, kiểm soát tỷ lệ thay đổi ngoại tệ nhằm hạn chế việc truy cập hoặc thao túng sự trao đổi hàng hóa nội - ngoại nhập nhằm hạ giá sản phẩm trong nước.

Tuy nhiên, trong bối cảnh phức tạp của nền kinh tế hiện nay, khi cạnh tranh thương mại quốc tế đang tăng cao, cùng với sự khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang xảy ra, các nước nhập khẩu, đặc biệt là các nước phát triển như Mỹ, Nhật, EU, có xu hướng gia tăng bảo hộ thương mại, không chỉ bằng các biện pháp truyền thống, mà xuất hiện cả những hình thức bảo hộ kiểu mới (Fajgelbaum và cộng sự, 2020). Các hình thức này, phổ biến gồm (Abboushi, 2010):

- Thứ nhất, giới hạn hoạt động thương mại quốc tế trong các lĩnh vực liên quan đến quốc phòng, vốn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế bền vững của mọi quốc gia.

- Thứ hai, cân bằng cán cân thương mại giữa quốc gia nhập và xuất khẩu như là điều kiện ràng buộc cho trao đổi thương mại quốc tế (Kaempfer và Willett, 1987).

- Thứ ba, hạn chế lao động trong các lĩnh vực nhập khẩu để phát triển nguồn nhân lực thay thế trong nước (Autor và cộng sự, 2013).

- Thứ tư, chính phủ có vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn độc quyền nhóm và độc quyền chính trị khi một ngành công nghiệp mới hình thành, nói cách khác là hỗ trợ và bảo hộ cho các ngành công nghiệp mới trong nước. (Autor và cộng sự, 2013).

- Thứ năm, ban hành và thực thi chính sách thương mại công bằng nhằm gây sức ép lên các nước khác yêu cầu các quốc gia xuất khẩu phải hạ thấp đi những điều luật khắt khe lên họ để họ được mở rộng thị phần vào quốc gia đó.

2.2. Lợi ích và thiệt hại từ bảo hộ thương mại

Lợi ích cơ bản nhất từ bảo hộ thương mại là các ngành công nghiệp trong nước được duy trì và gia tăng thị phần, trong khi các doanh nghiệp nước ngoài gặp nhiều hạn chế về thị phần và nhiều rủi ro khác trong doanh số bán hàng. Tuy nhiên, một số bằng chứng đã chỉ ra rằng, các doanh nghiệp nước ngoài cũng có thể hưởng lợi từ bảo hộ thương mại, khi thuế và giá cả sản phẩm ngoại nhập tăng cao mang lại doanh thu cao cho các doanh nghiệp này; doanh thu cao góp phần bù đắp đi những tổn thất do thị phần giới hạn vì cạnh tranh (Amiti và cộng sự, 2019). Hickok (1985) chỉ ra rằng, bảo hộ thương mại hầu như chỉ ảnh hưởng đáng kể đến các doanh nghiệp có sản phẩm có phân khúc thấp, trong khi các sản phẩm có phân khúc cao lại không tác động nhiều. Do đó, dù hạn chế về thị phần, nhưng những doanh nghiệp nước ngoài có sản phẩm ở phân khúc cao hầu như không bị ảnh hưởng nhiều về doanh thu từ những chính sách bảo hộ thương mại mang lại.

Bảo hộ thương mại mang lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp quốc nội và an ninh chính trị của quốc gia. Tuy nhiên, bảo hộ thương mại cũng gây ra những tác động cho doanh nghiệp trong và ngoài nước (OECD, 1985; Amiti và cộng sự, 2019). Cụ thể:

Thứ nhất, bảo hộ thương mại làm tăng giá sản phẩm, gây áp lực cho các doanh nghiệp nước ngoài vì bị hạn chế về thị phần, chịu thuế và những chính sách khác do bảo hộ thương mại mang lại.

Thứ hai, bảo hộ thương mại làm giảm hoạt động xuất nhập khẩu.

Thứ ba, bảo hộ thương mại gắn liền với các chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp bản địa, từ đó, thúc đẩy sản xuất của các doanh nghiệp này.

Thứ tư, các chính sách bảo hộ thương mại ở các quốc gia phát triển mang lại những tác động tiêu cực cho các quốc gia đang phát triển.

Thứ năm, chi phí cho việc bảo hộ thương mại đôi khi nhiều hơn những lợi ích mang lại.

3. Phương pháp nghiên cứu

Bài viết áp dụng triển khai phương pháp nghiên cứu định tính. Cụ thể, trước tiên, tác giả nghiên cứu và phân tích tình hình thương mại thế giới và Việt Nam hiện nay bằng những số liệu cụ thể, khách quan thu được từ những tổ chức uy tín trên thế giới.

Tiếp theo, để thu thập dữ liệu sơ cấp, tác giả tiến hành phỏng vấn một số chuyên gia, nhà nghiên cứu về xuất nhập khẩu và thương mại quốc tế về thực trạng xuất khẩu và vấn đề bảo hộ thương mại mà xuất khẩu nước ta phải đối diện trong thời gian qua.

Từ những dữ liệu thu thập được kết hợp với thực trạng xuất khẩu hiện nay của Việt Nam để phân tích, đánh giá và tìm ra nguyên nhân tồn tại những hạn chế trong xuất khẩu hiện nay của nước ta. Từ đó, dựa trên kinh nghiệm của những doanh nghiệp, quốc gia đã khắc phục được những hạn chế đó, để đề xuất giải pháp khắc phục cho doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.

4. Kết quả nghiên cứu

4.1. Thực trạng xuất khẩu Việt Nam thời gian qua

Đứng trước những thách thức trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Việt Nam vẫn duy trì được những kết quả tăng trưởng khả quan trong những năm gần đây từ sau khủng hoảng. Từ Biểu đồ 1, chúng ta có thể thấy trong giai đoạn 2012-2019, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam qua mỗi năm đều tăng, đặc biệt xuất khẩu tăng vượt bậc từ năm 2017, 2018, 2019. Chỉ trong vòng 8 năm, giá trị xuất khẩu của Việt Nam tăng 149,69 tỷ USD, đạt gấp 2 lần so với xuất phát điểm là 114,5 tỷ USD năm 2012.

 

Bảng 1. Một số thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam năm 2019

 Thị trường

 Xuất khẩu

 Kim ngạch
(Tỷ USD)

 So với năm 2018 (%)

 Tỷ trọng (%)

 Châu Á 

135,45

2,9

51,3

 - ASEAN

24,96

1,3

9,4

 - Trung Quốc 

41,41

0,1

15,7

 - Nhật Bản

20,41

8,4

7,7

 - Hàn Quốc

19,72

8,1

7,5

 Châu Âu

47,27

2,0

17,9

 - EU(28)

41,48

-1,0

15,7

 Châu Đại Dương 

4,46

-7,4

1,7

 Châu Mỹ 

73,89

27,3

28,0

 - Hoa Kỳ

61,35

29,1

23,2

 Châu Phi

3,12

8,1

1,2

 Tổng 

264,19

8,4

100,0

Nguồn: Tổng cục Hải quan

Năm 2019, Việt Nam đã xuất khẩu hàng hóa chủ yếu vào 3 khu vực chính là châu Á, châu Mỹ và châu Âu. Trong đó, tổng giá trị xuất khẩu vào thị trường châu Á chiếm 135,45 tỷ USD (tăng 2,9% so với cùng kỳ năm ngoái), chiếm 51,27% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam. Tại châu Mỹ, tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam là 73,89 tỷ USD (tăng 27,3% so với cùng kỳ năm 2018), chiếm 27,97% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam. Tại châu Âu, Việt Nam hầu như chỉ tập trung xuất khẩu vào các quốc gia thuộc khối Liên minh châu Âu EU với tổng giá trị xuất khẩu là 47,27 tỷ USD (tăng 2,0% so với cùng kỳ năm ngoái), chiếm 17,90% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam. Bên cạnh đó, xuất khẩu của Việt Nam cũng tham gia vào thị trường ở Châu Đại Dương (4,46 tỷ USD, chiếm 1,69% tổng giá trị xuất khẩu Việt Nam), Châu Phi (3,12 tỷ USD, chiếm 1,18% tổng giá trị xuất khẩu Việt Nam). (Bảng 1)

Năm 2019, các mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao bao gồm máy vi tính, linh kiện, sản phẩm điện tử tăng cao nhất (tăng 6,36 tỷ USD, tương ứng tăng 21,5%); hàng dệt may tăng 2,37 tỷ USD (tương ứng tăng 7,8%); điện thoại tăng 2,16 tỷ USD (tương ứng tăng 4,4%); giày dép tăng 2,08 tỷ USD (tương ứng tăng 12,8%), máy móc, thiết bị, dụng cụ tăng 1,94 tỷ USD (tương ứng tăng 11,9%); gỗ và sản phẩm gỗ tăng 1,74 tỷ USD (tương ứng tăng 19,5%); đá và kim loại quý tăng 1,45 tỷ USD (tương ứng tăng 3,3%) (Tổng cục Hải quan, 2020). Qua đó, có thể nhận thấy tốc độ xuất khẩu của các mặt hàng gia tăng nhất bao gồm các sản phẩm công nghệ thông tin, ngành gỗ, giày dép... (Hình 2)

Hình 2: Mười nhóm hàng xuất khẩu đạt mức tăng

lớn nhất về trị giá trong năm 2019

4.2. Sức ép và rủi ro từ bảo hộ thương mại đối với xuất khẩu Việt Nam

Các dẫn chứng thực tế đã chỉ ra những khó khăn mà bảo hộ thương mại đang tác động lên hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam hoàn toàn phù hợp những cơ sở lý luận về tác động tiêu cực của bảo hộ thương mại.

- Thứ nhất, giá thành hàng hóa Việt Nam khi xuất khẩu sang nước ngoài bị đẩy lên cao và sức ép cạnh tranh thị phần với sản phẩm nội địa tăng. Trên thực tế, để bảo hộ sản phẩm trong nước và chống hành vi bán phá giá từ Việt Nam, hàng loạt quốc gia đã áp dụng hàng loạt thuế lên các mặt hàng của Việt Nam như thuế chống bán phá giá, thuế quan tự vệ, thuế chống trợ cấp. Bằng chứng trong năm 2018, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) đã áp dụng thuế đối với mặt hàng cá tra Việt Nam lên 3,87 USD/kg cá tra.

Không riêng về mặt hàng cá tra, theo báo cáo của Bộ Công Thương (2018), hàng loạt mặt hàng Việt Nam xuất khẩu bị đánh thuế cao bao gồm: nhôm, gỗ, lâm sản, túi dệt LWS, thép, pin năng lượng, máy giặt,... Canada cũng áp dụng thuế lên hàng loạt sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam như ống thép hàn carbon. Trong khi đó, khối Liên minh châu Âu (EU) lại áp thuế lên các mặt hàng như xe tay nâng, thép... của Việt Nam. Các mặt hàng kim loại và chế phẩm kim loại của Việt Nam cũng bị đánh thuế cao tại thị trường các nước EU, Canada, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia, Brazil....

- Thứ hai, bảo hộ thương mại tăng cường siết chặt tiêu chuẩn kỹ thuật và hàng rào pháp lý là trở ngại đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Ông Nguyễn Nam Hải - Chủ tịch Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam trả lời phỏng vấn Thông tấn xã Việt Nam rằng thị trường xuất khẩu hồ tiêu của nước ta trong những năm gần đây bị ảnh hưởng cao từ bảo hộ thương mại, đặc biệt là Ấn Độ.Cuối quý 1 năm 2018, chính phủ Ấn Độ đã ngưng nhập khẩu hồ tiêu của Việt Nam nhằm bảo vệ lợi ích và việc làm cho nông dân của họ. Với lệnh cấm này từ chính phủ Ấn Độ, hồ tiêu của Việt Nam gặp khó khăn khi phải tìm một thị trường thay thế thị trường Ấn Độ mà vẫn đảm bảo đạt được những tiêu chuẩn về chất lượng hồ tiêu phù hợp với điều kiện nhập khẩu của nước bạn. Thủy hải sản đặc biệt là cá muốn nhập khẩu vào Mỹ phải trải qua các công đoạn kiểm duyệt từ quá trình nuôi đến quá trình thu hoạch và chế biến theo chương trình Thanh tra cá da trơn (được áp dụng từ tháng 8/2017). Trong khi đó, cá ngừ phải được Tổ chức Earth Island EII của Mỹ chứng nhận Dolphin safe đối với từng lô hàng.

Hơn thế nữa, các mặt hàng thủy sản phải thông qua quá trình giám sát và chứng nhận của Cục Quản lý đại dương và khí quyển quốc gia Mỹ NOAA. Chính những rào cản pháp lý phi thuế quan này đặt ra thách thức và rủi ro lớn cho doanh nghiệp, đối mặt với hàng loạt vụ điểu tra bảo hộ, hàng loạt mặt hàng xuất khẩu bị trả về do không đạt chỉ tiêu chất lượng, các mặt hàng bị đánh thuế cao vô lý... Bằng chứng là lô cá tra xuất khẩu (1/8/2015 - 31/7/2016) vào Mỹ bị áp mức thuế 3,87 USD/kg cá tra. Đối với xuất khẩu tôm của Việt Nam vào Nhật Bản, trước năm 2016, danh mục chất cấm trong tôm Việt Nam chỉ có Enrofloxacin, nay Nhật Bản đã tăng số lượng chất cấm lên 5.

- Thứ ba, bảo hộ thương mại còn gây thiệt hại về kinh tế, uy tín của doanh nghiệp khi các cuộc điều tra về bảo hộ thương mại nổ ra. Theo các nghiên cứu của Bộ Công Thương (2018), Việt Nam phải đối mặt với 144 vụ việc điều tra từ nước ngoài liên quan đến bảo hộ thương mại. Trong đó nổi bật là cuộc điều tra về dư lượng kháng sinh ở tôm năm 2017 và 2019. Các cuộc điều tra này thường kéo dài thậm chí đến vài năm, các doanh nghiệp phải hao tổn chi phí, thời gian để tham gia điều tra, vừa phải cân bằng và điều hòa doanh nghiệp tồn tại. Một khi một mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam bị điều tra, kéo theo hàng loạt mặt hàng khác cũng bị điều tra. Từ đó, làm giảm uy tín mà doanh nghiệp và quốc gia đã và đang xây dựng.

5. Một số giải pháp và kiến nghị thúc đẩy xuất khẩu Việt Nam

- Về phía chính phủ, cần tăng cường hợp tác, ký kết các hiệp định hợp tác song phương và đề xuất cảnh báo kịp thời. Hiện nay, Việt Nam đã tham gia và ký kết một số hiệp định thương mại như Hiệp định Thương mại tự do EVFTA, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương CPTPP... Bên cạnh đó, chính phủ cần ký kết và thỏa thuận với các nước đối tác về nền kinh tế thị trường của Việt Nam để hạn chế những chính sách chống bán phá giá như hiện nay mà Mỹ và các quốc gia tiềm năng đang áp dụng lên Việt Nam.

- Về phía doanh nghiệp, cần không ngừng đầu tư và phát triển chất lượng sản phẩm. Đề xuất bảo đảm an toàn thực phẩm đối với mặt hàng xuất khẩu là thực phẩm, chúng ta cần nghiên cứu liều lượng, thời gian sử dụng thuốc kháng sinh hợp lý và phù hợp với tiêu chuẩn xuất khẩu và tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Đồng thời, doanh nghiệp cần trang bị kiến thức về bảo hộ thương mại và pháp luật về thuế và xuất nhập khẩu. Việc trang bị kiến thức về pháp luật bảo hộ thương mại sẽ giúp doanh nghiệp hoạch định được chiến lược và thị trường xuất khẩu tiềm năng, đồng thời, nắm rõ luật pháp bảo hộ thương mại sẽ giúp doanh nghiệp tránh được những rủi ro mắc phải, từ đó bảo đảm được chất lượng hàng hóa phù hợp với tiêu chuẩn xuất khẩu. Không những thế, doanh nghiệp cần phải quan sát và phân tích thị trường nhằm đưa ra những phán đoán nhạy bén về tình hình xuất - nhập khẩu, thị trường muốn hướng đến và những rủi ro xuất khẩu do bảo hộ thương mại mang lại. Không chỉ vậy, doanh nghiệp cần đẩy mạnh tìm kiếm thị trường tiềm năng nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu.

6. Kết luận

Đứng trước khủng hoảng toàn cầu và những tác động tiêu cực do bảo hộ thương mại mang lại, xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2015-2019 vẫn khẳng định được vị thế phát triển ổn định và mang lại giá trị thặng dư cho đất nước. Tuy nhiên, sự bất ổn trong tăng trưởng xuất khẩu và xu thế bảo hộ thương mại đang quay lại sau các cuộc khủng hoảng gần đây tiềm ẩn nhiều rủi ro cho xuất khẩu Việt Nam, đặc biệt ở các thị trường quan trọng như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc. Bằng chứng là dù giá trị xuất khẩu của Việt Nam đang tăng nhưng đồng thời xuất khẩu của Việt Nam cũng đang đối mặt với hàng loạt vụ kiện tụng và điều tra bảo hộ thương mại trong thời gian gần đây, trong đó nổi bật là thẻ vàng thủy sản mà EU vẫn đang xem xét duy trì hay gỡ bỏ đối với xuất khẩu nước ta.

Vì vậy, để bảo vệ doanh nghiệp xuất khẩu trước những rủi ro từ bảo hộ thương mại, cần có sự hợp tác từ doanh nghiệp, hiệp hội lẫn chính phủ. Về phía doanh nghiệp, để hạn chế rủi ro tối đa trong xuất khẩu, trước tiên doanh nghiệp cần xây dựng và đảm bảo quá trình sản xuất đạt chất lượng kiểm định quốc tế như ISO, HACPP, GMP.... Tiếp đó, doanh nghiệp tự trang bị kiến thức về bảo hộ, kiến thức pháp lý; thường xuyên đánh giá và báo cáo về thị trường nhằm phát hiện kịp thời rủi ro; tích cực hợp tác với các doanh nghiệp, tổ chức có liên quan để cùng nhau phát triển; tích cực ứng dụng khoa học - công nghệ  - kỹ thuật vào trong sản xuất và vận hành dây chuyền sản xuất. Về phía chính phủ, tăng cường hỗ trợ pháp lý và bảo vệ doanh nghiệp trong những điều tra về bảo hộ; có chính sách hợp tác, đàm phán, thương thảo mềm dẻo nhưng cứng rắn nhằm khẳng định nền kinh tế thị trường của Việt Nam; hỗ trợ xây dựng và cải tiến quá trình sản xuất cho doanh nghiệp bằng việc hỗ trợ cho vay vốn, tích cực hỗ trợ doanh nghiệp trong việc chuyển đổi mục tiêu xuất khẩu từ xuất khẩu thô sang xuất khẩu các sản phẩm chế biến.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Abboushi Suhail (2010), “Trade protectionism: Reasons and outcomes”, Competitiveness Review, Vol. 20 No. 5, pp. 384-394. https://doi.org/10.1108/10595421011080760.
  2. Amiti M., Redding S.J., Weinstein D.E. (2019), “The Impact of the 2018 Trade War on U.S. Prices and Welfare”, CEPR Discussion Papers, No 13564.
  3. Autor D. H., Dorn D., Hanson G. H. (2013), “The China Syndrome: Local Labor Market Effects of Import Competition in the United States,” American Economic Review, Vol. 103, No. 6, pp. 2121-2168.
  4. Bộ Công Thương (2018), Báo cáo phòng vệ thương mại năm 2018, Bộ Công Thương.
  5. Fajgelbaum Pablo D, Goldberg Pinelopi K, Kennedy Patrick J, Khandelwal Amit K (2020), “The Return to Protectionism”, The Quarterly Journal of Economics, Volume 135, Issue 1, Pages 1-55, https://doi.org/10.1093/qje/qjz036
  6. Hickok (1985), “The consumer cost of US trade restraints”, Quarterly Review, Federal Reserve Bank of New York, New York, NY, pp. 1-12.
  7. Kaempfer W. , Willett, T. (1987), “Why an import surcharge wouldn’t help America’s trade deficit”, The World Economy, Vol. 10 No. 1, pp. 27-38.
  8. Lê Quang Thuận, Nguyễn Thị Phương Thúy (2018), “Xu hướng bảo hộ thương mại trên thế giới và kiến nghị đối với Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/xu-huong-bao-ho-thuong-mai-tren-the-gioi-va-kien-nghi-doi-voi-viet-nam-301021.html
  9. Nguyễn Hoàng Quy, Nguyễn Hoàng, Nguyễn Hoàng Việt, Phan Thanh Tú (2016), Chính sách thương mại quốc tế: Lý luận và thực tiễn Việt Nam hội nhập toàn cầu, NXB Thống kê.
  10. OECD (1985), Costs and Benefits of Protection, Organization for Economic Cooperation and Development, Paris.
  11. Roye B. (2018), “The resurgence of protectionism: potential implications for global financial stability”, Financial Stability Review, ECB.
  12. Tổng cục Hải quan Việt Nam (2020), “Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tháng 12 và năm 2019”, Báo Hải quan Việt Nam, https://www.customs.gov.vn/Lists/ThongKeHaiQuan/ViewDetails.aspx?ID=1734&Category=Phân%20tích%20định%20kỳ&Group=Phân%20tích.

 Trade protection and solutions to Vietnam

Le Hoang Quynh

Master’s student, Institute of Business and Accounting Kwansei Gakuin University

 ABSTRACT:

This study analyzes the nature of trade protection, its causes and its impact on exports of developing countries like Vietnam. This study was conducted by synthesizing previous studies, analyzing the current situation of Vietnam's exports in the period of 2010 - 2019 and interviewing international trade and exports experts. The sttudy finds that trade proctection policies become more popular after the 1997 and 2008 crises. In recent years, protection policies of the United States, Japan, and the EU have exerted pressure and had significant impacts on Vietnam's exports. Based on the analysis results, the study proposes a number of solutions for Vietnam’s exports enterprises and the government to promote sustainable exports, surpassing trade protection policies of key markets in the coming years.

Keywords: Free trade, trade protection, barrier, exports, policy, Vietnam