Bảo vệ thị trường, không bảo hộ doanh nghiệp

Vấn đề cân bằng thị trường theo hướng bảo vệ lợi ích của 3 chủ thể gồm nhà xuất khẩu nước ngoài, nhà sản xuất trong nước và người tiêu dùng luôn được cơ quan quản lý quan tâm hàng đầu khi sử dụng công cụ phòng vệ thương mại.
phong ve thuong mai bao ve thi truong
Các biện pháp PVTM cũng góp phần ổn định giá đầu vào cho một số ngành sản xuất trong nước.

Ổn định giá đầu vào cho sản xuất

Việc tham gia các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới đã tác động tới ngành sản xuất nội địa do phải cạnh tranh mạnh mẽ hơn với hàng nhập khẩu. Nhằm bảo vệ thị trường nội địa một cách công bằng, chống lại hiện tượng hàng hóa nhập khẩu cạnh tranh không lành mạnh, gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước, Bộ Công Thương đã triển khai các biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM).

Ngày 7/3/2016, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời đối với sản phẩm phôi thép và thép dài.

Ngày 31/5/2017, Bộ Công Thương ban hành Quyết định áp dụng biện pháp tự vệ đối với mặt hàng tôn màu nhập khẩu vào Việt Nam.

Ngày 19/8/2017, Bộ Công Thương ban hành Quyết định áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời với phân bón DAP, MAP, mức thuế 1.128.531 đồng/tấn.

Từ 2016 đến nay, Bộ Công Thương liên tiếp áp dụng các biện pháp PVTM với nhiều mặt hàng. Các doanh nghiệp xuất khẩu nước ngoài, đối tượng bị áp thuế tự vệ không khiếu nại các biện pháp này do cơ quan điều tra PVTM chứng minh rất rõ ràng mối liên hệ nhân - quả giữa việc tăng nhanh khối lượng, giá trị nhập khẩu với sự thiệt hại của các ngành sản xuất trong nước về thị phần, công suất, doanh thu, lợi nhuận, nhân công, tồn kho.

Các biện pháp PVTM đã khiến việc tăng trưởng nhập khẩu ồ ạt với những sản phẩm này đã giảm đi đáng kể. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu sắt thép các loại vào Việt Nam có xu hướng giảm. Trong năm 2018, trung bình mỗi tháng Việt Nam nhập khẩu 1,1 triệu tấn sắt thép các loại, thấp hơn 12% so với 2017 và thấp hơn 27% so với 2016; 8 tháng đầu năm 2019, lượng sắt thép nhập khẩu giảm tiếp 4,4% so với cùng kỳ. Sản lượng nhập khẩu phân bón năm 2018 giảm 10,6%, giá trị nhập khẩu giảm 4% so với năm 2017. 8 tháng đầu năm, lượng nhập khẩu giảm 9% và giá trị nhập giảm 10%.

Các biện pháp PVTM cũng góp phần ổn định giá đầu vào cho một số ngành sản xuất trong nước. Cụ thể, như đối với phân bón DAP, khi có sản xuất trong nước để tạo đối trọng, giá mặt hàng này đã thấp hơn thời kỳ phụ thuộc hoàn toàn vào nhập khẩu trước đó, những năm 2011 đến 2015 đã lên tới 20 triệu đồng/tấn so với trên 10 triệu đồng từ 2018 đến nay.

Các biện pháp PVTM đã và đang áp dụng góp phần bảo vệ công ăn việc làm của trên 100.000 người lao động trong các lĩnh vực nói trên, khuyến khích sản xuất trong nước phát triển và hỗ trợ cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Theo tính toán, những ngành sản xuất đang được bảo vệ bởi các biện pháp PVTM ước tính đóng góp khoảng 6,3% GDP của cả nước.

phong ve thuong mai bao ve thi truong 2
Công cụ PVTM được đưa ra không nhằm bảo hộ doanh nghiệp trong nước mà chủ yếu để bảo vệ tính cân bằng của thị trường

 

Cân bằng thị trường

Đến nay có thể đánh giá việc áp dụng công cụ PVTM đã bảo vệ được sự công bằng trên thị trường của các ngành sản xuất liên quan đến nông nghiệp, xây dựng đối với các sản phẩm phân bón, mì chính, tôn màu, phôi thép và thép dài, dầu nành, đồng thời giảm mức độ phụ thuộc vào hàng hóa nhập khẩu.

Có được điều này là do cơ quan quản lý đã rất cân nhắc khi áp dụng biện pháp PVTM theo hướng đảm bảo sự công bằng giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước. Ví dụ điển hình là trường hợp áp thuế tự vệ với phân DAP. Cơ quan điều tra đã kết luận mức chênh lệch giá gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước (bằng mức chênh lệch giữa giá bán thực tế và giá bán trong điều kiện không có thiệt hại) là 1.855.790 đồng/tấn. Nhưng Việt Nam chỉ áp thuế tự vệ 1.128.531 đồng/tấn, bằng 60% mức thuế được quyền áp dụng theo quy định của WTO.

Điều đó cho thấy, công cụ PVTM được đưa ra không nhằm bảo hộ doanh nghiệp trong nước mà chủ yếu để bảo vệ tính cân bằng của thị trường của 3 chủ thể tham gia, gồm doanh nghiệp sản xuất trong nước, nhà xuất khẩu nước ngoài và người tiêu dùng (nông dân). Mức thuế tự vệ chỉ bằng 60% mức được quyền áp dụng không chỉ chặn đứng hành vi bán phá giá của nhà xuất khẩu nước ngoài, mà còn giúp doanh nghiệp sản xuất trong nước đổi mới quản trị, quản lý để tăng năng suất, cải thiện chất lượng sản phẩm và công tác tiếp thị.

Việc áp thuế tự vệ với phân bón DAP bắt đầu từ tháng 8 năm 2017, đến năm 2018 đã phát huy tác dụng, sản xuất DAP trong nước tăng trên 12%; Nhà máy DAP Đình Vũ làm ăn có lãi, được đưa ra khỏi danh sách 12 dự án kém hiệu quả. Đối với người nông dân, theo tính toán của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, chi phí trồng trọt trong 4 tháng còn lại của năm 2017 chỉ tăng thêm không quá 0,72%; đến 2018 và những tháng đầu năm 2019 đã thấp hơn chút ít so với trước thời điểm áp thuế tự vệ.

Việc áp thuế tự vệ với phôi thép, thép dài, tôn mạ kẽm, tôn mạ màu cũng tương tự, giúp sản xuất trong nước phát triển mà không làm triệt tiêu động lực cạnh tranh. Thực tế cho thấy, với những ngành công nghiệp đầu vào quan trọng như phân bón, thép, kim loại cơ bản, hóa chất, chất dẻo... khi sản xuất trong nước đủ mạnh để tạo đối trọng, giá bình quân luôn thấp hơn thời kỳ phụ thuộc hoàn toàn vào nhập khẩu trước đó. Vì vậy, rất nhiều thành viên WTO, kể cả các nền kinh tế lớn, đều đã và đang áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại để phát triển các ngành sản xuất này.

Thực tế ở nước ta đã cho thấy, nếu sản xuất trong nước không tự lực thì hôm nay có được hàng hóa giá rẻ nhưng ngày mai sẽ phải chấp nhận nhập khẩu giá đắt. Nhưng nếu áp thuế tự vệ ở mức cao không cần thiết, có thể triệt tiêu động lực cạnh tranh và tạo ra tâm lý ỷ lại vào bảo hộ.

Vì thế, vấn đề cân bằng thị trường theo hướng bảo vệ lợi ích của 3 chủ thể gồm nhà xuất khẩu nước ngoài, nhà sản xuất trong nước và người tiêu dùng luôn được cơ quan quản lý quan tâm hàng đầu khi sử dụng công cụ PVTM.

Ngọc Châu