Một doanh nghiệp sản xuất nhựa

Hội thảo đề cập đến 5 nội dung cơ bản: Hiện trạng phát triển ngành nhựa; dự báo các nhân tố tác động; quy hoạch phát triển; luận chứng bảo vệ môi trường; giải pháp và tổ chức thực hiện.

Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, nếu chỉ tính những doanh nghiệp có số vốn từ 0,5 tỷ đồng trở lên thì có khoảng 1.064 doanh nghiệp nhựa, chủ yếu tập trung ở miền Nam. Số lượng doanh nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận như Đồng Nai, Bình Dương, Long An chiếm đến 80% tổng số lượng doanh nghiệp nhựa trên cả nước, trong khi số lượng doanh nghiệp ở miền Bắc và miền Trung chỉ chiếm 15% và 5%. Tổng số lao động của toàn ngành Nhựa là 118.925 người. Trong đó, số lao động của các doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm 55,8%, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 43%, số lao động của các doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm 0,3% tổng số lao động toàn ngành Nhựa.

Trong giai đoạn 2005 – 2010, ngành Nhựa Việt Nam phát triển khá nhanh với tốc độ tăng trưởng bình quân 20% - 25%/năm. Giá trị sản xuất công nghiệp ngành nhựa năm 2009 đạt 31.252 tỷ đồng, tăng 5.624 tỷ đồng so với năm 2008 và chiếm 4,48% tỷ trọng so với giá trị sản xuất công nghiệp cả nước. Tổng sản lượng nhựa năm 2010 đạt 3.800.000 tấn. Kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nhựa của Việt Nam năm 2010 đạt 01 tỷ USD. Sản phẩm nhựa của Việt Nam không chỉ được tiêu thụ rộng rãi ở thị trường nội địa mà còn được xuất khẩu và từng bước chiếm lĩnh thị trường tại 55 quốc gia và vùng lãnh thổ. Nhiều doanh nghiệp nhựa Việt Nam đã tạo dựng được thương hiệu sản phẩm uy tín như: Ống nhựa của Công ty Cổ phần Nhựa Bình Minh; công ty Cổ phần Nhựa Thiếu niên Tiền phong; Công ty Cổ phần Nhựa Minh Hùng; bao bì nhựa của Công ty Bao bì Nhựa Tân Tiến; Công ty Nhựa Vân Đồn; chai PET và chai ba lớp của các Công ty Nhựa Ngọc Nghĩa; Công ty Cổ phần Nhựa Tân Phú; nhựa gia dụng của Công ty Cổ phần Đại Đồng Tiến,… Một số doanh nghiệp đã có những mặt hàng được tiêu thụ ổn định với khối lượng khá lớn trên thị trường thế giới như Công ty Nhựa Rạng Đông với khăn trải bàn, vải giả da; Công ty Cổ phần Nhựa Tân Đại Hưng với bao dệt PP; Công ty Cổ phần Nhựa Hưng Yên với túi HDPE đựng hàng siêu thị và bao rác,…

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, ngành Nhựa Việt Nam vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế do điều kiện khách quan và chủ quan gây ra. Hiện nay, mỗi năm ngành Nhựa cần trung bình khoảng 2,2 triệu tấn các loại nguyên liệu đầu vào như PE, PP, PS,… chưa kể hàng trăm loại hóa chất phụ trợ khác nhau, trong khi khả năng trong nước mới chỉ đáp ứng được khoảng 450.000 tấn nguyên liệu nên phụ thuộc khá lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Giá thành sản xuất của ngành Nhựa bị biến động theo sự biến động của giá cả nguồn nguyên liệu nhập khẩu, đặc biệt là sự biến động về giá của hai loại nguyên liệu được sử dụng nhiều trong sản xuất là PP và PE với mức tăng trung bình là 13%. Số lượng mẫu mã, chủng loại sản phẩm nhựa sản xuất của Việt Nam còn đơn điệu, chưa đáp ứng được yêu cầu đa dạng của các nhà nhập khẩu, của các ngành kinh tế sử dụng sản phẩm nhựa kỹ thuật và của người tiêu dùng. Đồng thời ngành công nghiệp tái chế phế liệu nhựa của Việt Nam chưa phát triển, hệ thống thu gom phế liệu nhựa chưa hữu hiệu, trong khi đó việc nhập phế liệu theo quy định hiện hành là rất hạn chế nên trong nước không cung cấp được nguyên liệu nhựa tái chế đạt chất lượng và giá cả cạnh tranh, giúp các doanh nghiệp giảm giá thành sản phẩm. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam đang phải chịu áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp FDI có thế mạnh về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm và thị trường tiêu thụ. Hơn nữa, sự phát triển của các doanh nghiệp nhựa Việt Nam mang nặng tính tự phát, thay vì phải gắn bó, hỗ trợ lẫn nhau tạo sức mạnh cạnh tranh thì các nhà đầu tư tư nhân ngành nhựa lại thường tập trung sản xuất những mặt hàng ăn khách dẫn đến tình trạng chồng chéo, cạnh tranh lẫn nhau, gây lãng phí về vốn và ít hiệu quả kinh tế.

Điểm đáng lưu ý nữa là hiện nay, các trường đào tạo trong Bộ Công Thương hoặc ngoài Bộ, có rất ít trường đào tạo các chuyên ngành về ngành nhựa nhằm cung cấp nguồn nhân lực cho ngành, điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của ngành Nhựa Việt Nam, nhất là những ngành đòi hỏi phải có trình độ kỹ thuật cao.

Phát biểu xung quanh vấn đề phát triển ngành Nhựa Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020, tầm nhìn 2025, phần đông các doanh nghiệp tham dự hội nghị đều có ý kiến cho rằng: Nhà nước cần có một cơ chế chính sách thích hợp và bền vững nhằm hạn chế những khó khăn mà ngành Nhựa Việt Nam đang gặp phải. Ví dụ như các doanh nghiệp nhựa cần được ưu tiên vay vốn để mở rộng sản xuất và chủ động hơn về nguồn nguyên liệu. Hoặc như, Chính phủ cần cung cấp nhanh những thông tin về sự thay đổi tỷ giá và những vấn đề liên quan, để các doanh nghiệp nhựa Việt Nam có phương hướng hành động kịp thời trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, bởi lẽ phần lớn nguyên liệu của ngành Nhựa Việt Nam phải nhập khẩu từ nước ngoài (85%), cho nên sự ảnh hưởng của tỷ giá là rất lớn.

Cũng tại Hội nghị, Thứ trưởng Hồ Thị Kim Thoa đã chỉ đạo, ngành Nhựa Việt Nam trong thời gian tới cần phải phát triển theo hướng hiện đại, tăng cường tự động hóa, đầu tư thẳng vào công nghệ tiên tiến, quy hoạch thật cụ thể cho từng bước phát triển, phù hợp với thị trường, tổng hợp mọi nguồn lực trong và ngoài nước để ngành Nhựa Việt Nam đến năm 2020 phát triển nhanh chóng và bền vững, theo kịp với các nước tiên tiến trên thế giới.

Hội nghị cũng đề ra mục tiêu trong giai đoạn tiếp theo là phát triển ngành Nhựa Việt Nam thành một ngành kinh tế mạnh với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững. Từng bước xây dựng và phát triển ngành nhựa đồng bộ từ sản xuất nguyên liệu đến chế biến sản phẩm cuối cùng, tăng dần tỷ trọng nguyên liệu trong nước, sản xuất được những sản phẩm chất lượng cao, đa dạng về chủng loại, mẫu mã, có tính cạnh tranh cao, thân thiện với môi trường, đáp ứng phần lớn nhu cầu của thị trường trong nước, có khả năng xuất khẩu những sản phẩm có giá trị gia tăng cao để ngành Nhựa Việt Nam phát triển ngang tầm với khu vực và trên thế giới. Phấn đấu đến năm 2025 giá trị sản xuất công nghiệp ngành nhựa đạt 390.000 tỷ đồng và đạt 6,0% tỷ trọng so với toàn ngành công nghiệp.

Để đạt được mục tiêu đề ra, các doanh nghiệp cần chú trọng xây dựng và phát triển rộng khắp hệ thống đại lý tiêu thụ sản phẩm, phát huy vai trò của các chi nhánh nhằm tăng tính chủ động trong kinh doanh. Đồng thời, các doanh nghiệp trong Ngành cần phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc cạnh tranh về giá đối với các sản phẩm nhập ngoại, không tự cạnh tranh lẫn nhau trong nội bộ ngành dẫn đến thiệt hại chung. Tăng cường đầu tư cho công tác điều tra, nghiên cứu, dự báo thị trường và xúc tiến thương mại để có các dữ liệu đầy đủ, chính xác và kịp thời về thị trường, mục tiêu của các doanh nghiệp sản xuất. Thực hiện cuộc vận động “người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”, đẩy mạnh tuyên truyền để người dân hiểu rõ chất lượng hàng nhựa Việt Nam không thua kém hàng nhập ngoại, hướng dẫn người tiêu dùng đánh giá chất lượng và lựa chọn sản phẩm khi mua.

Đối với các thương hiệu Việt đã nổi tiếng, có uy tín trong nước, cần có chiến lược phát triển lâu dài trên cơ sở mở rộng sản xuất để giữ vững và phát triển thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm, không ngừng cải tiến mẫu mã, đa dạng sản phẩm, củng cố và phát triển hệ thống tiêu thụ sản phẩm bảo đảm tin cậy, thuận lợi, uy tín với khách hàng. Chú trọng xây dựng các tiêu chuẩn sản phẩm như: mã vạch, tem sản phẩm,… để chống hàng nhái, hàng nhập lậu.

Về phía Nhà nước, cần khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất nguyên liệu trong nước, khuyến khích sử dụng và sản xuất nhựa tái sinh, tạo điều kiện và cho phép doanh nghiệp nhập phế liệu nhựa, nhập khẩu nhựa phế thải sạch về tái chế hạt nhựa để có thể đáp ứng nhu cầu về nguyên liệu, máy móc đang thiếu hụt hiện nay nhằm tăng năng lực sản xuất cho các doanh nghiệp nhựa. Đồng thời khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tham gia sản xuất nguyên liệu nhựa ở Việt Nam trên cơ sở sử dụng nguồn nguyên liệu dầu khí trong nước. Tạo điều kiện cho các nhà đầu tư của ngành Hóa dầu, Hóa chất và ngành Nhựa trong nước liên doanh, nhằm tận dụng thế mạnh trong việc cung cấp nguồn nguyên liệu, khả năng vốn và bao tiêu sản phẩm. Ngoài ra, cơ quan quản lý ngành (Bộ Công Thương) cần phối hợp chặt chẽ với Hiệp hội Nhựa Việt Nam tiến hành rà soát lại các mục tiêu đầu tư, xác định rõ các trọng tâm, trọng điểm để tập trung đầu tư và chỉ đạo, điều chỉnh cơ cấu đầu tư phục vụ chuyển dịch cơ cấu nội ngành (các nhóm sản phẩm nhựa) và cơ cấu vùng lãnh thổ theo đúng định hướng, …

Mặc dù còn tồn tại nhiều khó khăn, nhưng với những thành tựu đã đạt được cộng với sự nổ lực phấn đấu của toàn Ngành, chúng ta tin rằng, trong tương lai, ngành Nhựa Việt Nam sẽ có những bước tiến vượt trội, trở thành một trong những ngành kinh tế thế mạnh của đất nước.