Ưu tiên cho đối tượng doanh nghiệp

Gần 10 năm qua, thực hiện Chương trình Quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020 theo Quyết định 2457 của Thủ tướng Chính phủ, đã có những tiến bộ về ứng dụng công nghệ cao trong nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội; nhưng chưa có nhiều kết quả rõ rệt về mặt làm chủ và tạo ra công nghệ cao. Một trong những lý do là nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước còn hạn hẹp.

Trên thực tế, tổng kinh phí cho các hoạt động khoa học - công nghệ của Bộ Công Thương giảm liên tiếp trong 2 năm 2016 và 2017, đến năm 2018 đã tăng trở lại ở mức độ khiêm tốn 2,3%. Nhưng điều đáng quan tâm là kinh phí dành cho các Chương trình quốc gia (trong đó có công nghệ cao) chiếm  43,9%, thấp nhất  trong giai đoạn 2011 - 2018 với tỷ lệ trung bình trên 50%.

Nguồn vốn dành cho khoa học công nghệ nói chung và công nghệ cao còn hạn hẹp, trong lúc kỳ vọng của Chính phủ rất lớn khi đặt mục tiêu đến 2020: Tạo ra được ít nhất 10 công nghệ cao đạt trình độ tiên tiến trong khu vực; tăng giá trị sản xuất công nghiệp công nghệ cao đạt khoảng 40% tổng giá trị sản xuất công nghiệp; phát triển khoảng 500 doanh nghiệp sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ công nghệ cao; phát triển khoảng 40 cơ sở ươm tạo công nghệ cao; phát triển được 20 cơ sở đào tạo nhân lực công nghệ cao đạt trình độ quốc tế.

Sức ép đến từ 2 phía, kinh phí hạn hẹp và kỳ vọng của Chính phủ, những người làm công tác khoa học công nghệ của Bộ Công Thương xác định được cách tiếp cận mới, đặc biệt là vai trò chủ động của cơ quan quản lý nhà nước trong lựa chọn những dự án tốt, ưu tiên cho đối tượng doanh nghiệp. Cụ thể, tập trung vào xây dựng những nhiệm vụ khoa học và công nghệ có quy mô lớn, chuyển trọng tâm hỗ trợ từ nghiên cứu cơ bản sang nghiên cứu phát triển sản phẩm; đẩy mạnh sự phối hợp giữa cơ quan nghiên cứu khoa học với lực lượng khoa học của các doanh nghiệp nhằm thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu, có khả năng sản xuất theo quy mô công nghiệp. Dự án “Đầu tư xây dựng Nhà máy sản xuất sợi thủy tinh dùng cho thông tin quang” là ví dụ điển hình cho sự phối hợp đó.

Dự án do Công ty Cổ phần Thiết bị Bưu điện (Postef) làm chủ đầu tư xuất phát từ nhu cầu thị trường cáp quang của Việt Nam rất cao với giá trị  khoảng 5 tỷ USD trong giai đoạn 2016-2020. Việt Nam hiện có hàng chục doanh nghiệp sản xuất cáp quang cho mạng thông tin quang, nhưng toàn bộ sợi quang phục vụ sản xuất cáp quang phải nhập khẩu từ nước ngoài. Việc chủ động sản xuất sợi quang trong nước sẽ đem lại lợi thế về giá thành sản phẩm. Đây là công nghệ thế hệ mới mà Việt Nam và các nước trong khu vực chưa làm chủ và sản xuất được và thuộc danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển theo Quyết định 66 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ.

ho tro KHCN
Dự án sản xuất sợi quang của Postef là một ví dụ trong nhiều dự án công nghệ cao được sự hỗ trợ của Bộ Công Thương.

Đó là những lý do chủ yếu khiến Vụ Khoa học - Công nghệ, Bộ Công Thương xắn tay vào hỗ trợ Dự án này. Nhưng với số tiền không nhiều từ ngân sách, sẽ hỗ trợ vào khâu nào? và bắt đầu từ đâu? Với kinh nghiệm hỗ trợ cho nhiều dự án công nghệ cao thành công, sản phẩm làm ra có chỗ đứng trên thị trường, những cán bộ Vụ Khoa học - Công nghệ hiểu rằng, cách tốt nhất để tìm câu trả lời là làm việc trực tiếp với doanh nghiệp. Qua nhiều lần bàn thảo và khảo sát trực tiếp, chìa khóa của bài toán đã hiện ra. Dự án dự định nhập khẩu thiết bị của một doanh nghiệp nước ngoài, và nhập khẩu công nghệ của một đối tác nước ngoài khác, thì cách hỗ trợ hiệu quả nhất là nghiên cứu làm chủ quy trình công nghệ sản xuất ra sợi quang và quy trình công nghệ đo kiểm, kiểm tra tiêu chí chất lượng sản phẩm. Đó là 2 chìa khóa “vàng” trong toàn bộ quy trình sản xuất ra một sản phẩm mới.

Sau hai năm đồng hành cùng doanh nghiệp, ngày 15/8, nhà máy sản xuất sợi thủy tinh dùng cho thông tin quang đã khánh thành khi Postef đã làm chủ công nghệ sản xuất phôi (Perform), đưa Việt Nam trở thành nước đầu tiên tại khu vực Đông Nam Á sản xuất được vật liệu này.

Dự án đã giúp POSTEF tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, đạt được mục tiêu chủ động nguồn nguyên vật liệu cho các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam, tiết kiệm ngoại tệ cho đất nước, góp phần đảm bảo an ninh thông tin cho Việt Nam. Sức lan tỏa của dự án cực kỳ lớn khi nó cung cấp cho hạ tầng viễn thông một hệ thống truyền dẫn tiên tiến với giá cả hợp lý trong bối cảnh công nghệ cáp quang đang thay thế công nghệ cáp đồng một cách mạnh mẽ, được triển khai trong tất cả các loại hình truyền thông, từ điện thoại, truyền hình đến internet. Trong tương lai 10 năm nữa chưa có phương thức truyền dẫn nào tốt hơn truyền dẫn tín hiệu trên sợi quang.

Hiệu ứng xã hội hóa

Dự án sản xuất sợi quang của Postef là một ví dụ trong nhiều dự án công nghệ cao được sự hỗ trợ của Bộ Công Thương. Đặc trưng của các dự án này là tính xã hội hóa nguồn lực rất cao. Đến nay đã có nhiều nhiệm vụ, dự án mang lại hiệu quả cao về mặt kinh tế-xã hội, khoa học công nghệ, hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp tham gia thực hiện và tạo hiệu ứng xã hội hóa. Ngoài Dự án sợi quang kể trên đã thu hút nguồn lực xã hội trên 300 tỷ đồng, còn có thể kể đến một số dự án khác như:

- Dự án “Hoàn thiện công nghệ chế tạo thiết bị hệ thống thu thập, lưu trữ hình ảnh DICOM hệ thống hội chẩn y tế trực tuyến video và phần mềm bảo mật, khai thác cơ sở dữ liệu hình ảnh DICOM phục vụ chuẩn đoán bệnh” do Công ty cổ phần công nghệ thông minh Ưu Việt thực hiện, có chức năng hỗ trợ y bác sĩ trong thu thập, lưu trữ, khai thác hình ảnh phục vụ hội chẩn trực tuyến, chẩn đoán bệnh, đã huy động nguồn lực xã hội tham gia Chương trình khoảng 20 tỷ đồng.

ho tro KHCN
Việc chủ động sản xuất sợi quang trong nước sẽ đem lại lợi thế về giá thành sản phẩm.

- Dự án “Phát triển dịch vụ ứng dụng công nghệ GPS trong quản lý, giám sát, điều phối và tối ưu hóa kế hoạch sử dụng phương tiện” do Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội thực hiện, đã thương mại hóa sản phẩm cho 14 hãng taxi ứng dụng trên 5.000 xe trong 12 tháng, với vốn đối ứng của doanh nghiệp tham gia dự án gần 10 tỷ đồng.

- Dự án “Hoàn thiện dây chuyền sản xuất và nâng cao chất lượng bao gói khí quyển biến đổi (MAP) phục vụ bảo quản nông sản, thực phẩm” do Công ty Công nghệ và Dịch vụ Thương mại Lạc Trung  thực hiện, đã nâng thời gian bảo quản tăng gấp 4 lần so với các sản phẩm bao gói nông sản, thực phẩm thông thường, thương mại hóa được khoảng 50 tấn sản phẩm cho trên 10 doanh nghiệp.

Thống kê số liệu cho thấy, một kết quả nổi bật của Chương trình công nghệ cao do Bộ Công Thương thực hiện giai đoạn 2016-2020 so với giai đoạn trước là huy động nguồn vốn ngoài ngân sách gia tăng cả về giá trị tuyệt đối và tỉ lệ tương đối. Trong giai đoạn 2013-2015 nguồn vốn huy động ngoài ngân sách của các dự án được phê duyệt gần 65 tỷ đồng, chiếm 54% tổng nguồn vốn thực hiện. Giai đoạn 2016-2020, nguồn vốn huy động ngoài ngân sách (tính cả số kinh phí dự kiến bố trí trong Kế hoạch năm 2019-2020) đạt trên 756 tỷ đồng, chiếm 83,4% tổng nguồn vốn thực hiện.

Vững tin khi có sự đồng hành

Các dự án ứng dụng công nghệ cao và làm chủ, tạo ra công nghệ cao hiện đang gặp nhiều rủi ro. Khó khăn lớn nhất nằm ở chỗ tiếp cận thị trường do còn nhiều rào cản nhận thức. Nhiều người vẫn cho rằng, về các mặt chất lượng, độ tin cậy, khả năng ứng dụng… của sản phẩm công nghệ cao của doanh nghiệp trong nước không thể bằng hàng nhập khẩu. Hơn thế nữa, những sản phẩm của công nghệ cao trong nước thường là lần đầu tiên do Việt Nam sản xuất, nên người tiêu dùng (bao gồm cả doanh nghiệp) có xu hướng sử dụng hàng nước ngoài do đã qua kiểm chứng.

Sản phẩm của công nghệ cao còn gặp khó khăn khi đấu thầu. Công nghệ cao có 4 lĩnh vực: Thông tin và truyền thông; vật liệu mới; công nghệ sinh học; tự động hóa. Đây là những lĩnh vực rất mới ở nước ta, trong khi Luật Đấu thầu đặt lên hàng đầu tiêu chuẩn đánh giá về “năng lực, kinh nghiệm” của doanh nghiệp tham gia đấu thầu. Đây là vòng luẩn quẩn “con gà và quả trứng”. Vì lần đầu tiên sản xuất ở Việt Nam nên “năng lực” không bằng doanh nghiệp công nghệ cao nước ngoài; vì không được tham gia đấu thầu nên chưa có “kinh nghiệm” thực hiện thầu.

Với những rủi ro khi tham gia thị trường như trên, doanh nghiệp hết sức đắn đo trong quá trình lập dự án công nghệ cao. Trên con đường tiên phong ấy, biết bao những dấu hỏi khi đặt chân vào lĩnh vực mới mẻ, thị trường mới mẻ chưa được dự liệu một cách rành mạch, rõ ràng. Bởi thế, khi có sự đồng hành của cơ quan nhà nước trong thực hiện dự án, doanh nghiệp cảm thấy ấm lòng, vững tin hơn.

Thấy được đường đi còn nhiều trắc trở của các dự án công nghệ cao, những người làm công tác khoa học - công nghệ, Bộ Công Thương luôn kiên định với cách tiếp cận mới:

  • Chủ động lựa chọn dự án tốt (có tính tiên phong về công nghệ, sức lan tỏa mạnh mẽ).
  • Ưu tiên cho đối tượng doanh nghiệp thay vì trường, viện như trước kia.
  • Chọn đúng khâu hỗ trợ cho thiết thực, hiệu quả.