TÓM TẮT

Tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIV, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống thiên tai và Luật Đê điều số 60/2020/QH14 đã được Quốc hội thông qua ngày 17/6/2020 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2021. Bài viết phân tích một số quy định mới của Luật, tạo hành lang pháp lý và hoàn thiện hệ thống pháp luật về Phòng, chống thiên tai ở nước ta.

Từ khóa: hành lang pháp lý, hoàn thiện hệ thống pháp luật, Luật Phòng, chống thiên tai.

1. Đặt vấn đề

Theo thống kê, mỗi năm trung bình thiên tai làm trên 400 người chết, mất tích; thiệt hại vật chất khoảng 1-1,5% GDP; ảnh hưởng nặng nề đến môi trường, điều kiện sống cũng như các hoạt động kinh tế - xã hội, đồng thời tác động lớn đến sự phát triển bền vững của đất nước.

Đặc biệt, năm 2020 đã xảy ra 16 loại hình/576 đợt, trận thiên tai, trong đó:  14 cơn bão trên biển Đông;  265 trận dông, lốc, mưa lớn trên 49 tỉnh/TP;  120 trận lũ, lũ quét, sạt lở đất;  Đặc biệt là đợt mưa lũ lớn lịch sử từ ngày 6 - 22/10 tại khu vực Trung Bộ, nhất là tại các tỉnh từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên - Huế;  90 trận động đất; Hạn hán, xâm nhập mặn nghiêm trọng, sạt lở bờ sông, bờ biển, sụt lún đê biển tại Đồng bằng sông Cửu Long,…

Tính đến ngày 21/12/2020, thiên tai đã làm: 357 người chết, mất tích và 876 người bị thương; 3.429 nhà sập; 333.084 nhà bị hư hại, tốc mái, di dời khẩn cấp; 511.172 lượt nhà bị ngập; 144 nghìn ha lúa và 54 nghìn ha hoa màu bị thiệt hại; 51.923 con gia súc và 4,11 triệu con gia cầm chết, cuốn trôi; 787km đê kè, kênh mương bị sạt lở, hư hỏng; 272,5km bờ biển, sông bị sạt lở. Ước tính thiệt hại về kinh tế hơn 37.400 tỷ đồng.

Trong bối cảnh đó, vào kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIV, Chính phủ đã trình Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống thiên tai và Luật Đê điều. Dự án Luật được xã hội quan tâm và nhiều đại biểu Quốc hội đồng tình, thống nhất thông qua.

2. Một số quy định mới của Luật Phòng, chống thiên tai 

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống thiên tai và Luật Đê điều số 60/2020/QH14 quy định rất nhiều nội dung mới, tạo hành lang pháp lý và hoàn thiện hệ thống pháp luật về Phòng, chống thiên tai, trong đó có một số quy định trọng tâm như sau: 

Thứ nhất, Luật Bổ sung 4 loại thiên tai thường xuyên xuất hiện, ảnh hưởng và gây thiệt hại lớn nhưng chưa được quy định trong Luật hiện hành gồm: gió mạnh trên biển, sương mù, cháy rừng và sạt lở đất, sụt lún đất do hạn hán. Đây là các loại hình thiên tai thường xuyên xảy ra, gây nhiều thiệt hại về người và tài sản.

- Gió mạnh trên biển: Là gió thổi một chiều (như gió mùa Đông Bắc, gió mùa Tây Nam); tác động đến toàn bộ Bắc và giữa Biển Đông, vùng biển Tây Nam, trong suốt cả năm, gây nhiều thiệt hại. 

- Sương mù: Xảy ra thường xuyên ở tất cả các vùng trên cả nước, đặc biệt tại các khu vực miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ và Tây Nguyên, làm hạn chế tầm nhìn, gây ra tai nạn đối với phương tiện giao thông đường thủy, đường hàng không và đường bộ. Điển hình: Đợt sương mù xảy ra vào tháng 12/2013 tại Nghệ An, tháng 4/2018 tại Hòa Bình, tháng 12/2018 tại Sơn La làm nhiều xe tải bị tai nạn.           

- Cháy rừng do tự nhiên: Việt Nam hiện có 14,5 triệu ha rừng, tỷ lệ che phủ đạt 42%. Có khoảng 9 - 10 triệu dân cư sinh sống trong hoặc gần rừng. 

Cháy rừng xảy ra ở Việt Nam chủ yếu do thời tiết vào mùa khô, nắng nóng kéo dài, độ ẩm không khí thấp, bề mặt đất nóng lên, gió lớn,... khi gặp nguồn lửa từ tự nhiên như: sét, nhiệt mặt trời, đá lăn sinh ra tia lửa, hoạt động của núi lửa, nổ đạn lân tinh,... sẽ gây cháy rừng nghiêm trọng. 

Thứ hai, Luật bổ sung chính sách ưu tiên bố trí nguồn lực nghiên cứu, điều tra cơ bản, xây dựng và triển khai các chương trình khoa học công nghệ trong phòng, chống thiên tai; tăng cường các giải pháp khắc phục hậu quả thiên tai và chính sách ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn, huấn luyện nâng cao năng lực cho người làm công tác phòng, chống thiên tai; huấn luyện, cung cấp phương tiện, trang thiết bị và có chính sách cho lực lượng xung kích phòng, chống thiên tai cấp xã. 

Điều tra cơ bản là một hoạt động quan trọng. Các nguồn thông tin, cơ sở dữ liệu thu thập được qua quá trình điều tra cơ bản phòng chống thiên tai là căn cứ để các cơ quan chuyên môn đưa ra các quyết sách hiệu quả, kế hoạch, quy hoạch dài hạn trong công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực phòng, chống thiên tai. Tuy nhiên thực tiễn, các nguồn thông tin, cơ sở dữ liệu về phòng chống thiên tai như: cơ sở dữ liệu về hệ thống công trình phòng, chống thiên tai, cơ sở dữ liệu về công trình hạ tầng có liên quan đến phòng, chống thiên tai,… chưa có hoặc không đầy đủ, phân tán tại nhiều cơ quan và các địa phương dẫn đến chưa đáp ứng được yêu cầu, chất lượng nên cần được phải được điều tra, cập nhật để phục vụ công tác chỉ đạo, chỉ huy và quản lý nhà nước về Phòng, chống thiên tai. 

Trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay,  khoa học - công nghệ đóng vai trò là nguồn lực quan trọng cho công tác phòng, chống thiên tai. Để chủ động ứng phó với tình hình thiên tai ngày càng khốc liệt, khoa học công nghệ phải đi trước một bước để nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ mới trong và ngoài nước. Việc nghiên cứu và ứng dụng này cần được Nhà nước ưu tiên bố trí nguồn lực để giải quyết những vấn đề mang tính tổng thể, dài hạn cho phòng chống thiên tai.

Thứ ba, Luật đã bổ sung quy định lực lượng xung kích phòng, chống thiên tai được thành lập ở cấp xã, do Chủ tịch UBND cấp xã thành lập trên cơ sở dân quân ở thôn, ấp, bản, làng, buôn, bon, phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố, khóm, tiểu khu; dân quân ở cấp xã và tổ chức khác tại địa phương thực hiện nhiệm vụ phòng, chống thiên tai theo phương án ứng phó thiên tai của địa phương. Thực tiễn, hiện nay các địa phương đã xây dựng lực lượng xung kích phòng, chống thiên tai cấp xã bao gồm dân quân tự vệ và các tổ chức khác như: Hội Chữ thập đỏ, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên,… để thực hiện tốt nhiệm vụ phòng, chống thiên tai tại chỗ. 

Thời gian qua, thiên tai xảy ra tại một số địa phương như Lào Cai, Sơn La,… lực lượng xung kích phòng, chống thiên tai cấp xã đã phát huy hiệu quả ngay từ giờ đầu, đặc biệt là khi lực lượng chuyên nghiệp chưa kịp tiếp ứng đối với các khu vực bị chia cắt và cô lập. Ví dụ, trong trận lũ lịch sử ở bản Hua Nậm, xã Nậm Păm của Sơn La, bản số 5 có lực lượng xung kích rất sáng suốt huy động toàn lực lượng nòng cốt ngay lúc đó làm công tác sơ tán dân 11h đêm, do đó cả một thôn không bị thiệt hại về người.

Thứ tư, Luật đã bổ sung quy định về Quỹ Phòng, chống thiên tai ở trung ương do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý và quy định nguồn tài chính của Quỹ Trung ương.

- Ngoài ra, Luật cũng quy định về hoạt động của Quỹ Phòng, chống thiên tai như sau:

Hoạt động không vì mục đích lợi nhuận: Quỹ Phòng, chống thiên tai được sử dụng để hỗ trợ hoạt động phòng, chống thiên tai như: cứu trợ khẩn cấp về lương thực, nước uống, thuốc chữa bệnh, hỗ trợ tu sửa nhà ở, cơ sở y tế, trường học và xử lý vệ sinh môi trường vùng thiên tai,… do vậy, không có mục tiêu về lợi nhuận. 

+ Hỗ trợ cho các hoạt động phòng, chống thiên tai mà ngân sách nhà nước chưa đầu tư hoặc chưa đáp ứng yêu cầu: Theo đánh giá của các chuyên gia thuộc Ngân hàng Thế giới (WB), năng lực tài chính hiện nay của Việt nam chỉ đáp ứng khoảng 21% nhu cầu tái thiết và khắc phục khẩn cấp. Do vậy, Luật đã bổ sung quy định Quỹ Phòng, chống thiên tai hỗ trợ cho các hoạt động phòng, chống thiên tai mà ngân sách nhà nước chưa đầu tư, chưa đáp ứng để tăng cường năng lực về tài chính cho công tác phòng chống thiên tai. 

Thứ năm, Luật đã bổ sung quy định về Điều tra cơ bản phòng, chống thiên tai. Điều tra cơ bản là một hoạt động quan trọng. Các nguồn thông tin, cơ sở dữ liệu thu thập được qua quá trình điều tra cơ bản phòng, chống thiên tai là căn cứ để các cơ quan chuyên môn đưa ra các quyết sách hiệu quả, kế hoạch, quy hoạch dài hạn trong công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực phòng, chống thiên tai. Tuy nhiên, thực tiễn, các nguồn thông tin, cơ sở dữ liệu về phòng chống thiên tai, như: cơ sở dữ liệu về hệ thống công trình phòng, chống thiên tai, cơ sở dữ liệu về công trình hạ tầng có liên quan đến phòng, chống thiên tai,… chưa có hoặc không đầy đủ, phân tán tại nhiều cơ quan và các địa phương dẫn đến chưa đáp ứng được yêu cầu, chất lượng nên cần được điều tra, cập nhật để phục vụ công tác chỉ đạo, chỉ huy và quản lý nhà nước về phòng, chống thiên tai. 

Theo quy định của Luật, Điều tra cơ bản phòng, chống thiên tai được thực hiện định kỳ hoặc đột xuất để thu thập thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ quản lý nhà nước và hoạt động phòng, chống thiên tai. Nội dung điều tra cơ bản phòng, chống thiên tai gồm: Hiện trạng về số lượng, chất lượng, năng lực của công trình phòng, chống thiên tai và công trình hạ tầng có liên quan đến phòng, chống thiên tai; Hiện trạng về cơ cấu tổ chức, cơ chế chính sách, nhân lực, tài chính, trang thiết bị trong hoạt động phòng, chống thiên tai; Hiện trạng hệ thống thông tin, quan trắc, giám sát thiên tai và các dữ liệu phòng chống thiên tai; Tác động của biến đổi khí hậu đến diễn biến thiên tai; tác động của thiên tai đến hoạt động phát triển kinh tế - xã hội; các loại hình thiên tai; hoạt động phát triển kinh tế - xã hội liên quan đến phòng, chống thiên tai.

Thứ sáu, Bổ sung quy định đảm bảo yêu cầu phòng, chống thiên tai.  Luật quy định bảo đảm yêu cầu phòng, chống thiên tai trong giai đoạn quản lý, sử dụng công trình tại Điều 18a. Đồng thời sửa đổi, bổ sung Điều 19 quy định bảo đảm yêu cầu phòng chống thiên tai trong giai đoạn đầu tư xây dựng mới hoặc nâng cấp khu đô thị, điểm, khu du lịch, khu công nghiệp, điểm dân cư nông thôn; công trình phòng chống thiên tai, giao thông, điện lực và công trình hạ tầng kỹ thuật. 

Thứ bảy,  Luật quy định về thông tin dự báo, cảnh báo thiên tai phải “chính xác” thành “đủ độ tin cậy” để phù hợp với thực tiễn về công tác thông tin dự báo, cảnh báo về thiên tai. Trên thực tế, việc dự báo chính xác tuyệt đối là không thể làm được. Việc quy định như vậy cũng phù hợp với các quy định của các nước tiên tiến trên thế giới và phù hợp, thống nhất với Luật Khí tượng thủy văn 2015. 

Thứ tám, Luật quy định về việc huy động, quyên góp và phân bổ nguồn lực cứu trợ, hỗ trợ khắc phục hậu quả thiên tai. Việc huy động quyên góp cứu trợ, hỗ trợ thiên tai là hoạt động mang tính nhân đạo xã hội nhằm có thêm nguồn lực xã hội khắc phục hiệu quả, kịp thời khó khăn của người dân vùng bị thiên tai về cả vật chất và tính thần; mang tính truyền thống lá lành đùm lá rách, tương thân tương ái của người Việt. Hoạt động này đã trở nên thường xuyên mỗi khi có thiên tai lớn. Trong điều kiện nguồn lực từ ngân sách nhà nước còn hạn chế, việc mở rộng thẩm quyền vận động, quyên góp để đa dạng hóa, bổ sung nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước cho công tác cứu trợ, hỗ trợ thiên tai là rất cần thiết.

Luật bổ sung quy định các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ vận động quyên góp, tiếp nhận nguồn lực để cứu trợ khẩn cấp, hỗ trợ trung hạn. Sau khi tiếp nhận, các bộ, cơ quan ngang bộ có trách nhiệm chuyển giao nguồn lực đã vận động, quyên góp, tiếp nhận được cho Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để phân bổ. 

Ngoài ra, Luật bổ sung thẩm quyền kêu gọi, tiếp nhận các khoản hỗ trợ khẩn cấp nước ngoài trong các tình huống khẩn cấp về thiên tai cho Ban chỉ đạo Quốc gia về phòng chống thiên tai nhằm huy động được nhiều nguồn lực hơn cho công tác khắc phục hậu quả thiên tai. Nhiệm vụ này của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai cũng đã được quy định tại Nghị định số 160/2018/NĐ-CP.

Thứ chín, Luật quy định về khoa học, công nghệ, hợp tác quốc tế trong phòng, chống thiên tai.         

Khoa học, công nghệ đóng vai trò là một nguồn lực quan trọng cho công tác phòng, chống thiên tai. Hiện một số địa phương đã sử dụng nhiều giải pháp kỹ thuật ứng phó với thiên tai tiết kiệm chi phí, thân thiện với môi trường như sử dụng kè sinh thái thay cho kè cứng; kè du lịch với túi vải địa kỹ thuật ở khu vực xói lở mạnh (đối với khu vực bờ biển, giá thành rẻ); kè phá sóng từ xa hoặc trồng rừng phòng hộ chắn sóng ở các vị trí xung yếu. Tại Điều 39a quy định các hoạt động về nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, công nghệ mới để nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo, theo dõi, giám sát, truyền tin các loại hình thiên tai, tác động của biến đổi khí hậu và các hoạt động có thể làm gia tăng rủi ro thiên tai, hoạt động nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, vật liệu mới để nâng cao hiệu quả đầu tư, quản lý, sử dụng công trình phòng, chống thiên tai, thích ứng biến đổi khí hậu; bảo đảm an toàn công trình đê điều, công trình phòng, chống sạt lở, sụt lún đất, hồ, đập và công trình phòng, chống thiên tai khác.

Thứ mười, Luật quy định về cơ quan tham mưu, giúp việc cho Ban Chỉ huy phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn cấp tỉnh. Theo đó, quy định Ban Chỉ huy phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn cấp tỉnh sử dụng bộ phận hiện có của cơ quan chuyên môn về nông nghiệp và phát triển nông thôn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh làm chuyên trách để tham mưu, giúp việc.

Đây là quy định phù hợp với Chỉ thị 42-CT/TW. Tại Chỉ thị 42-CT/TW, Ban Bí thư đã yêu cầu kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về công tác phòng, chống thiên tai theo hướng tập trung, thống nhất, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, khắc phục tình trạng phân tán, chồng chéo, đồng thời nâng tầm hoạt động của cơ quan phòng chống thiên tại các cấp theo hướng chuyên trách.

3. Kết luận

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống thiên tai và Luật Đê điều được ban hành năm 2020 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần tạo hành lang pháp lý thuận lợi để phát huy vai trò chủ đạo của Nhà nước trong phòng, chống thiên tai; nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế trước tác động của thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu; tận dụng tối đa nguồn lực hỗ trợ của cộng đồng quốc tế cho công tác phòng, chống thiên tai ở Việt Nam và thực hiện tốt cam kết, thỏa thuận quốc tế. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO: 

  1. Quốc hội (2013), Luật Phòng, chống thiên tai, Hà Nội. 
  2. Quốc hội (2020), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống thiên tai và Luật Đê điều số 60/2020/QH14.
  3. Tổng cục Phòng, chống thiên tai (2019), Các báo cáo đánh giá quá trình thực hiện Pháp luật Phòng, chống thiên tai tại Quốc hội.
  4. Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường (2020), Báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống thiên tai giai đoạn từ tháng 5/2014 đến nay số 1654/ Bc -UBKHCNMT 14 ngày 28 tháng 2 năm 2020. 
  5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2015), Tài liệu quản lý thiên tai dựa vào cộng đồng . 
  6. Nhóm công tác về Biến đổi khí hậu của các tổ chức Phi chính phủ (2015), Sáng kiến thích ứng với Biến đổi khí hậu dựa vào cộng đồng ở Việt Nam. 

Some new provisions of the Law on Natural disaster prevention and control activities

 Master. Le Thi Phuong

Vietnam Red Cross Society

ABSTRACT:

At the 9th session of Vietnam’s 14th National Assembly, the law amending and supplementing a number of articles of the Law on Natural Disaster Prevention and Control activities and the Law on Dikes No.60/2020/QH14 was approved on June 17, 2020 and this law took effect from July 1, 2021. This paper analyzes some new provisions of this law which creates a legal corridor and perfects the legal system on natural disaster prevention and control activities in Vietnam.

Keywords: legal corridor, perfecting the legal system, the Law on Natural disaster prevention and control activities.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 18, tháng 7 năm 2021]