Nhiệt điện than vẫn là nguồn cung hợp lý về sản lượng và giá cả

Phát biểu khai mạc Hội thảo “Cần có cái nhìn đúng về Nhà máy nhiệt điện than” ngày 13/12/2018, Thứ trưởng Bộ Công Thương Cao Quốc Hưng cho biết, quan điểm chỉ đạo của Chính phủ là phải đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, trong đó có việc đảm bảo cung cấp đủ điện phục vụ phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ quan trọng.

Thứ trưởng Cao Quốc Hưng tại Hội thảo “Cần có cái nhìn đúng về Nhà máy nhiệt điện than” ngày 13/12/2018
Thứ trưởng Bộ Công Thương Cao Quốc Hưng khẳng định vai trò quan trọng của nhiệt điện than trong việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia

 

Trong giai đoạn 2016-2030, dự báo tốc độ tăng trưởng GDP với kịch bản cơ sở bình quân 7,0%, tương ứng với tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm toàn quốc ở phương án cơ sở giai đoạn 2016-2020, 2021-2025 và 2026 -2030 là 10,6%, 8,5% và 7,5%.

Theo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020, có xét đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hiệu chỉnh tại Quyết định 428 năm 2016 (Quy hoạch điện VII điều chỉnh), đến năm 2020 điện thương phẩm đặt mục tiêu đạt 235 tỷ kWh, và tăng lên 506 tỷ kWh trong năm 2030.

Quy hoạch cũng nêu rõ mục tiêu đặt ra cho điện sản xuất và nhập khẩu đạt 265 tỷ kWh trong năm 2020 và 572 tỷ kWh trong 2030. 

Thứ trưởng Cao Quốc Hưng cho rằng, để đáp ứng nhu cầu điện cho phát triển cần phát triển nguồn điện hài hòa nhất là trong bối cảnh các thuỷ điện vừa và lớn cơ bản đã khai thác hết, các nguồn điện khác còn hạn chế. Đơn cử như nguồn khí, hiện tổng công xuất nhiệt điện khí (dùng khí đốt trong nước) đưa vào cân đối dài hạn chỉ dừng ở mức trên 12.000 MW với sản lượng điện khoảng 63 tỷ kWh/năm.

Do đó, trong giai đoạn tới, nhiệt điện than đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.

Cũng theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh, đến năm 2030, cả nước sẽ có hơn 70 nhà máy nhiệt điện than.

Dự kiến giai đoạn 2018-2022, tổng công suất các nguồn điện đưa vào vận hành là 34.864 MW, trong đó nhiệt điện than là 26.000 MW.

Tuy nhiên, thực tế tới nay mới chỉ có 7 dự án nhiệt điện than đã được khởi công và đang triển khai xây dựng với công suất 7.860 MW, còn thiếu 18.000 MW theo yêu cầu.

Chia sẻ quan điểm với Thứ trưởng Cao Quốc Hưng, ông Lê Văn Lực - Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) nhấn mạnh, “thuỷ điện đã tới hạn, điện khí hạn chế vì giá nhập khẩu cao và phụ thuộc vào thị trường thế giới, điện mặt trời thì công suất kém, không đáp ứng đủ nhu cầu. Vậy nên, từ nay tới năm 2030 và nhiều năm sau, nhiệt điện than vẫn sẽ chiếm cơ cấu chủ yếu trong thị trường điện”.

Ông Lê Văn Lực - Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) tại Hội thảo “Cần có cái nhìn đúng về Nhà máy nhiệt điện than” ngày 13/12/2018
Trong bối cảnh các nguồn năng lượng khác chưa phát huy tối đa vai trò, ông Lê Văn Lực - Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) nhiệt điện than vẫn sẽ chiếm cơ cấu chủ yếu trong thị trường điện

 

Báo cáo của Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) cho thấy, hiện nay nguồn thuỷ điện lớn và vừa cơ bản đã khai thác hết. Điện năng sản xuất từ thuỷ điện năm 2030 chỉ chiếm khoảng 12,4%. Điện hạt nhân đã được Quốc hội ban hành Nghị quyết số 31 về việc đừng đầu tư thực hiện.

Đối với nguồn điện nhập khẩu, Việt Nam đang phải nhập khoảng 1.000 MW từ Trung Quốc và Lào. Con số còn được dự kiến sẽ tăng từ 3 đến 5 lần trong thời gian tới. Đại diện Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo cũng chia sẻ thêm, Bộ Công Thương hiện đang trình Thủ tướng Chính phủ khung giá điện để làm cơ sở đàm phán mua điện nhập khẩu. Tuy nhiên tiềm năng mua cũng hạn chế và giá điện khả năng phải tương đương giá khu vực.

Đối với nhiệt điện khí trong nước, trữ lượng các mỏ bắt đầu suy giảm, chi phí sản xuất điện cao do giá khí cao, sơ bộ giá điện khoảng 2.700-2.800 đ/kWh. Nguồn nhiệt điện khí sử dụng LNG nhập khẩu phụ thuộc vào giá thị trường thế giới. Nguồn năng lượng tái tạo thì giá điện cao, vận hành không ổn định, phụ thuộc vào thời tiết và cần có nguồn dự phòng.

Trong bối cảnh đó, nhiệt điện than là nguồn có giá hợp lý, có vai trò quan trọng trong việc cung ứng điện. Hiện nay, nhiệt điện than cấp 37-38% điện năng cho nhu cầu điện năng của đất nước. Trong điện thương phẩm năm 2017, nhiệt điện than chiếm khoảng 176 tỷ kWh, và năm 2018 chiếm 215 - 216 tỷ kWh. Theo tính toán quy hoạch được duyệt tới 2030, nhiệt điện than sẽ chiếm 53% điện năng cung cấp cho hệ thống.

Phân tích về một số dự án nhiệt điện than chưa thể triển khai do không nhận được sự ủng hộ của các địa phương như Long An 1,2 hay Bạc Liêu 1, Phó Cục trưởng Lê Văn Lực chỉ rõ, việc thay 100 MW nhiệt điện than có giá 1.600 đồng/kWh, tương đương 7 tỷ kWh/năm, bằng nhiệt điện khí LNG có giá 2.100 đồng/kWh sẽ khiến chi phát điện mỗi năm tăng thêm tới khoảng 3.500 tỷ đồng.

 

Kiểm soát tác động lên môi trường của các nhà máy nhiệt điện than

Trước nhiều băn khoăn về việc phát thải gây ô nhiễm môi trường của các nhà máy, các chuyên gia tại Hội thảo đều cho rằng, vấn đề môi trường đã và đang được kiểm soát, giám sát chặt chẽ bởi Chính phủ, các Bộ ngành cũng như các tổ chức xã hội và nhân dân nơi có dự án. 

Theo ông Phạm Anh Dũng, Phó Vụ trưởng Vụ Thẩm định đánh giá tác động môi trường (Tổng Cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường), nguồn thải từ nhiệt điện than gồm có khí thải lò hơi; nước thải công nghiệp, sinh hoạt và nước làm mát và chất thải rắn thông thường (bao gồm tro, xỉ), nguy hại.

Hiện Nhà nước đã ban hành khá nhiều văn bản pháp luật quy định cụ thể về vấn đề này và nhận được sự hưởng ứng cũng như hợp tác tốt từ các nhà máy, đặc biệt trong việc thực hiện quan trắc liên tục khí thải tại cửa xả và truyền số liệu về Sở Tài nguyên Môi trường để giám sát chất lượng nước làm mát.

Ông Nguyễn Tân Bình - Trưởng ban Khoa học công nghệ - Môi trường (Tập đoàn Điện lực Việt Nam EVN) khẳng định, hiện nay các nhà máy nhiệt điện than của EVN đang sử dụng công nghệ hiện đại không thua kém các nhà máy trong khu vực và trên thế giới, hoàn toàn đáp ứng tốt các yêu cầu về môi trường. “Điều này đã được Trung tâm năng lượng than Nhật Bản (JCOAL) đánh giá cao tại Hội nghị bàn về phát triển nhiệt điện than với công nghệ hiệu suất cao, thân thiện môi trường tổ chức đầu năm 2018”, ông Nguyễn Tân Bình nhấn mạnh. 

Sử dụng tro, xỉ của nhà máy nhiệt điện để sản xuất vật liệu xây dựng được cho là một trong những giải pháp hiệu quả
Tái sử dụng tro, xỉ của nhà máy nhiệt điện để sản xuất vật liệu xây dựng được cho là một trong những giải pháp kiểm soát phát thải hiệu quả

 

Cùng với đó, các giải pháp về môi trường luôn được áp dụng đồng bộ, tuân thủ nghiêm ngặt công tác bảo vệ môi trường, vận hành hiệu quả và giảm thiểu tối đa phát thải ra môi trường xung quanh. Hiện nay, các kết quả đo đạc, phân tích cho thấy phát thải của các nhà máy thường thấp hơn nhiều lần so với quy chuẩn môi trường quy định, việc thu gom, vận chuyển và tái sử dụng tro xỉ cũng được chú trọng tại nhiều nhà máy.

Nhiệt điện than với công nghệ cao, hiện đại, thân thiện với môi trường vẫn mang lại nhiều lợi ích cho hệ thống điện vì diện tích chiếm đất ít, sản lượng điện lớn, ổn định, giá thành sản xuất hợp lý hơn các nguồn điện khác (giá nhiệt điện than thấp chỉ sau thủy điện).
Với công nghệ cao, hiện đại, thân thiện với môi trường, nhiệt điện than vẫn sẽ mang lại nhiều lợi ích cho hệ thống điện vì diện tích chiếm đất ít, sản lượng điện lớn, ổn định, giá thành sản xuất hợp lý.