Những khó khăn, vướng mắc về pháp lý trong quá trình triển khai phòng, chống dịch Covid-19

ThS. LÊ HỒ TRUNG HIẾU - ThS. ĐINH LÊ OANH (Giảng viên Khoa Luật, Trường Đại học Văn Lang)

TÓM TẮT:

Trong đại dịch Covid-19, Việt Nam được nhiều tổ chức có uy tín trên thế giới công nhận là quốc gia thành công trong việc phòng, chống dịch bệnh với mức chi phí thấp. Thông qua các chính sách và sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, toàn thể nhân dân đã chủ động kiểm soát dịch trong 3 lần diễn biến phức tạp vừa qua tại các thành phố lớn. Tuy nhiên, bên cạnh sự thành công, vẫn còn một số khó khăn và vướng mắc đang tồn tại trong quá trình triển khai các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19. Trong đó, khung pháp lý của Việt Nam về phòng chống bệnh truyền nhiễm vẫn còn những vấn đề chưa được hoàn thiện và rõ ràng, cụ thể là quyền lợi của người nhiễm bệnh, quyền riêng tư và tiếp cận thông tin của người dân, phạm vi điều chỉnh của một số luật liên quan, mức hình phạt áp dụng với các hành vi vi phạm pháp luật. Bài viết này sẽ bàn về những khó khăn, vướng mắc về pháp lý trong quá trình triển khai phòng, chống dịch Covid-19.

Từ khóa: covid-19, khung pháp lý, khó khăn, vướng mắc.

1. Đặt vấn đề

Trong cuộc chiến chống đại dịch Covid-19, mặc dù Việt Nam đã có những thành công bước đầu hạn chế việc bùng phát dịch trên diện rộng, dần dần ổn định và phát triển kinh tế trong trạng thái “bình thường mới” nhằm thực hiện “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch hiệu quả, vừa phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, nguy cơ dịch bệnh vẫn luôn hiện hữu, chúng ta vẫn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức. Trong đó, phải kể đến những khó khăn, vướng mắc về pháp lý trong quá trình triển khai phòng, chống dịch Covid-19.

2. Nội dung

2.1. Quyền của người nhiễm bệnh Covid-19 theo pháp luật hiện hành chưa được bảo đảm trên thực tế

 Cùng với việc Chính phủ ban hành Quyết định số 219/QĐ-BYT ngày 29/01/2020, các quyền lợi về sức khỏe của người bị nhiễm Covid-19 được quy định trong Luật Khám, chữa bệnh năm 2009, Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 được bổ sung hoàn thiện hơn. Theo đó, người bị nhiễm Covid - 19 sẽ được đảm bảo các quyền sức khỏe sau: quyền được khám, chữa bệnh có chất lượng phù hợp với điều kiện thực tế; quyền được bảo vệ bí mật đời tư, quyền được đảm bảo danh dự, bảo vệ sức khỏe, quyền bình đẳng, quyền được lựa chọn trong khám bệnh, chữa bệnh; quyền được cung cấp thông tin về hồ sơ bệnh án và chi phí khám bệnh, chữa bệnh; quyền được miễn chi phí khám chữa bệnh. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy rằng việc triển khai chính sách và biện pháp của Chính phủ để đảm bảo tất cả các quyền lợi này cho người nhiễm bệnh vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn, vướng mắc.

Thứ nhất, quyền được khám, chữa bệnh có chất lượng phù hợp với điều kiện thực tế của người nhiễm bệnh chưa được đảm bảo một cách tối đa. Theo Điều 7 của Luật Khám, chữa bệnh 2009, bệnh nhân phải được tư vấn, giải thích về tình trạng sức khỏe, phương pháp điều trị và dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh phù hợp với bệnh. Tuy nhiên, với số lượng gia tăng các ca nhiễm bệnh và nguy cơ nhiễm bệnh như hiện nay, ngành Y tế đang phải đối mặt với tình trạng thiếu nhân viên y tế, số lượng bệnh nhân, người thực hiện cách ly y tế ở các bệnh viện quá tải. Hơn thế nữa, đội ngũ y bác sĩ chưa được tiếp cận với công nghệ mới, thiếu thiết bị y tế chuyên dụng và cơ sở hạ tầng để phục vụ cho việc khám và chữa bệnh trong giai đoạn dịch. Chính những điều này đã tác động không nhỏ đến việc đảm bảo chất lượng phục vụ, chăm sóc chu đáo của cơ quan và cán bộ y tế đối với người nhiễm bệnh theo đúng quy định của pháp luật[1].

Thứ hai, quy định đảm bảo quyền miễn chi phí khám, chữa bệnh của người mắc bệnh truyền nhiễm vẫn bất cập trong quá trình thực hiện. Theo quy định tại khoản 2 Điều 48 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007, người mắc dịch bệnh thuộc nhóm A được khám và điều trị miễn phí. Do đó, người bị nhiễm hoặc nghi nhiễm Covid-19 sẽ được khám và điều trị miễn phí vì theo Quyết định số 219/QĐ-BYT ngày 29/01/2020 Chính phủ đã xếp dịch bệnh này vào nhóm A theo Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007. Nếu xét về phạm vi khám và chữa bệnh, việc cách ly y tế được xem một trong những cách thức giúp người nhiễm bệnh tránh lây lan dịch bệnh ra khỏi cộng đồng cũng như là bảo vệ sức khỏe bản thân thông qua việc kiểm tra của các cơ quan chức năng. Vì thế, chi phí về khám, chữa bệnh trong khi cách ly y tế theo quy định của pháp luật cũng phải được miễn phí. Theo đó, tại khoản 1 Điều 4 Nghị định số 101/2010/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm về áp dụng biện pháp cách ly y tế, các đối tượng cách ly y tế hoặc bị cưỡng chế cách ly chỉ được miễn viện phí. Trong khi đó, tại khoản 1 Điều 2 của Thông tư số 32/2012/TT-BTC về quản lý kinh phí đối với người bị áp dụng biện pháp cách ly y tế đối với các trường hợp cách ly y tế, người cách ly được miễn chi phí khám bệnh, chữa bệnh theo quy định hiện hành về giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh đối với cơ sở y tế công lập do cơ quan có thẩm quyền ban hành khi phát hiện, điều trị các bệnh truyền nhiễm theo hướng dẫn chuyên môn của Bộ Y tế. Ở đây, các văn bản quy phạm pháp luật chưa có sự thống nhất với nhau khi Nghị định số 101/2010/NĐ-CP chỉ cho các đối tượng cách ly được miễn viện phí chứ không phải là toàn bộ chi phí khám và chữa bệnh theo đúng quy định của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 và Thông tư số 32/2012/TT-BTC. Điều này dẫn đến sự khó khăn trong việc thanh toán chi phí tại các cơ sở khám, chữa bệnh và nơi cách ly.

2.2. Quy định về bảo vệ quyền riêng tư, quyền tiếp cận thông tin và giám sát của người dân trong giai đoạn dịch bệnh không thể thực thi một cách triệt để

Quyền đời tư, quyền tiếp cận thông tin và quyền giám sát của người dân là các quyền cơ bản của con người được thừa nhận trong Tuyên bố quốc tế về nhân quyền của Liên hợp quốc năm 1948 và Hiến Pháp của nhiều quốc gia. Đối với các vấn đề về sức khỏe con người và phòng chống dịch bệnh tại Việt Nam, ba quyền này đã được quy định trong Hiến Pháp 2013 và cụ thể hóa trong các văn bản luật có liên quan như Luật Tiếp cận thông tin 2016, Luật Khám, chữa bệnh 2009 và Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007[2]. Liên quan đến bảo vệ đời tư, quyền này được quy định tại khoản 2 Điều 3 của Luật Khám, chữa bệnh năm 2011. Theo đó, việc khám, chữa bệnh cần phải đảm bảo nguyên tắc: “Tôn trọng quyền của người bệnh, giữ bí mật về thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong hồ sơ bệnh án, nếu không phải là trường hợp thuộc khoản 2 Điều 8, khoản 1 Điều 11 và khoản 4 Điều 59”. Đồng thời, Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 còn đưa ra quy định cấm về hành vi “Phân biệt, đối xử và đưa hình ảnh, thông tin tiêu cực về người mắc bệnh truyền nhiễm” tại khoản 5 Điều 8. Về quyền tiếp cận thông tin dịch bệnh, đây là nguyên tắc cơ bản được thừa nhận trong Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007, yêu cầu cung cấp và công khai tất cả các thông tin về dịch bệnh. Cuối cùng, quyền giám sát của người dân được thừa nhận trong Hiến Pháp 2013 thông qua việc “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với các cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước; Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân” (Điều 28). Trong quá trình phòng, chống dịch bệnh, việc giám sát này đươc thực hiện thông qua sự tham gia của người dân, theo đó “Cơ quan, tổ chức, cá nhân khi phát hiện bệnh hoặc dấu hiệu bệnh truyền nhiễm có trách nhiệm thông báo cho Uỷ ban nhân dân, cơ quan chuyên môn y tế hoặc cơ sở y tế nơi gần nhất” (khoản 4 Điều 23 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007).

Trên thực tế, trong giai đoạn dịch Covid-19, việc đảm bảo đồng thời ba quyền này lại tồn tại những hạn chế, bất cập khiến cho việc thực thi các chính sách của Nhà nước gặp nhiều khó khăn, cụ thể:

  • Thứ nhất, ba quyền này có sự liện quan tác động qua lại lẫn nhau. Tuy nhiên, các quy định trong các văn bản pháp luật hiện nay dường như đang bỏ sót yếu tố này. Thực tiễn cho thấy khi thực hiện các quy định để bảo vệ đời tư của người nhiễm bệnh thì đồng thời dẫn đến khả năng tiếp cận thông tin của người dân bị hạn chế. Từ đó, dựa trên việc cập nhận thông tin không đầy đủ từ các cơ quan nhà nước, người dân mới không thể thực hiện quyền giám sát thông qua việc tham gia vào các hoạt động phòng, chống bệnh truyền nhiểm như thông báo kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, các trường hợp có nguy cơ lây nhiễm[3]. Rõ ràng, tại khoản 1 Điều 10 theo luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007, Luật không đưa ra giới hạn đối với việc tiếp cận thông tin của người dân nói chung, “Mọi người đều được tiếp cận với thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống bệnh truyền nhiễm”. Trong khi đó, Luật cũng không quy định rõ như thế nào thông tin về phòng, chống bệnh truyền nhiễm và phải chăng nó sẽ bao gồm cả thông tin của người nhiễm bệnh. Tuy nhiên, Luật Khám, chữa bệnh năm 2009 lại yêu cầu thông tin của người bệnh lại cần phải được giữ bí mật trừ một số trường hợp. Hơn thế nữa, cả hai luật này đều xác định việc giữ bí mật thông tin người bệnh sẽ hoàn toàn phụ thuộc người có trách nhiệm khám, chữa bệnh như vào nhân viên y tế và thầy thuốc chứ không phải toàn bộ người dân (khoản 3 Điều 33). Một câu hỏi đặt ra ở đây những người khác ngoài các đối tượng trên phải chăng đều được tiếp cận loại thông tin này và không cần phải giữ bí mật. Điều này đã thể hiện sự chưa rõ ràng trong quy định trong trách nhiệm bảo vệ quyền tiếp cận thông tin và bảo vệ đời tư.
  • Thứ hai, vai trò và trách nhiệm của người dân chưa được ghi nhận ở một số quy định bảo vệ ba quyền này. Như đã đề cập ở trên, hiện nay pháp luật chỉ yêu cầu cơ quan có thẩm quyền, cơ sở khám và chữa bệnh, giữ bí mật thông tin đời tư người bệnh; trong khi đó hoàn toàn không đề cập tới trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức. Ngoài ra, việc giám sát trực tiếp của người dân vẫn chưa được pháp luật quy định rõ ràng trong quá trình phòng, chống dịch Covid-19. Hiện nay, các hình thức giám sát của người dân chủ được thể hiện qua hoạt động của các cơ quan đại diện như tổ chức Công đoàn, Hội Liên hiệp phụ nữ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, và một số cơ quan chức năng khác. Để đảm bảo tính dân chủ, pháp luật chỉ thừa nhận việc giám sát trực tiếp của người dân bằng việc trưng cầu ý dân, cho phép các cá nhân, tổ chức thực hiện việc khiếu nại, tố cáo, báo tin đến các cơ quan chức năng. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là các quy định này chưa thể đảm bảo toàn diện quyền giám sát của người dân khi đối tượng ở đây là giám sát trực tiếp vẫn là hoạt động của các cơ quan chính quyền trong việc thực hiện trách nhiệm của mình[4].
  • Cuối cùng, việc thực hiện các quy định bảo vệ các quyền này trong giai đoạn hiện nay đang gây cản trở cho công tác phòng chống dịch Covid-19. Cụ thể, để đảm bảo quyền riêng tư của những người nhiễm bệnh, Chính phủ đã thực hiện biện pháp đánh số ký hiệu và nơi sinh sống để người dân có thể xác định, cập nhật diễn biến tình hình của người bệnh, người có nguy cơ nhiễm bệnh, khoanh vùng cần cách ly và từ đó đưa ra phương án phù hợp. Tuy nhiên, số lượng ca bệnh hiện nay đã hơn 2400 người[5] và việc đánh số bệnh nhân theo thứ tự này sẽ làm người dân khó phân biệt và nhầm lẫn trong việc tiếp cận thông tin về tình hình lây lan của dịch. Bên cạnh đó, bí mật đời tư có thể khiến cho Nhà nước gặp khó khăn trong việc truy vết nguồn bệnh và phân loại người nhiễm bệnh. Hiện nay, nhiều cơ quan chính quyền vì không muốn xâm phạm đến bí mật đời tư nên họ hoàn toàn dựa trên trách nhiệm khai báo của người nhiễm bệnh hoặc có nguy cơ. Từ đó, các cơ quan này sẽ mất nhiều thời gian và nỗ lực trong xem xét tính trung thực, đầy đủ và chính xác của người khai báo thông tin[6].

2.3. Một số quy định của pháp luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm chưa hoàn thiện

Một số quy định trong Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm 2007 vẫn chưa được hoàn thiện và phù hợp với tình hình thực tế của dịch Covid - 19. Thứ nhất, theo Điều 1 về đối tượng điều chỉnh, Luật chỉ áp dụng đối với các đối tượng là cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, khi dịch Covid-19 bắt đầu lây lan, dịch bệnh không chỉ tác động đến các đối tượng trong nước mà nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến các đối tượng ở nước ngoài bao gồm các cá nhân Việt Nam, các tổ chức của Việt Nam ở nước ngoài[7]. Vì thế, các đối tượng này cũng cần được pháp luật bảo vệ và họ phải có trách nhiệm đối với quá trình phòng chống bệnh truyền nhiễm. Luật cần bổ sung các quy định cụ thể cho nhóm đối tượng này. Thứ hai, về vấn đề hợp tác quốc tế, Luật chỉ tồn tại những quy định chung chung, chưa cụ thể hóa các trách nhiệm thực hiện đối với ai và cần làm những gì. Tại Điều 56 của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm 2007, Luật chỉ quy định Bộ Y tế là cơ quan quyết định các vấn đề về hợp tác quốc tế về trao đổi mẫu bệnh phẩm, thông tin dịch, chuyên môn, kỹ thuật, chuyên gia, thiết bị, kinh phí trong hoạt động chống dịch. Tuy nhiên, cách thức thực hiện như thế nào ở từng vấn đề thì vẫn chưa có quy định và các văn bản hướng dẫn cụ thể. Hơn thế nữa, các vấn đề về phối hợp chặt chẽ, trao đổi thông tin với các nước có người Việt Nam sinh sống, làm việc hỗ trợ kịp thời người Việt Nam ở nước ngoài cũng như thực hiện tốt chính sách đưa người Việt Nam từ các nước khác trở về do bị ảnh hưởng của dịch bệnh cũng chưa được quy định đầy đủ trong Luật. Có thể thấy đại dịch Covid-19 hiện nay không chỉ ảnh hưởng đến một quốc gia mà nó còn lan rộng tới nhiều quốc gia khác trên thế giới. Vì thế, hợp tác quốc tế là một trong những yếu tố cốt lõi và cũng được xem là cách thức phòng chống dịch bệnh toàn cầu. Việt Nam đã là thành viên của tổ chức y tế thế giới WHO từ năm 1950 và trong giai đoạn dịch vừa qua Việt Nam cũng đã có những đóng góp tích cực trong khu vực ASEAN và thế giới trong việc hỗ trợ kinh phí, thiết bị, lương thực. Vì thế, các quy định về hợp tác quốc tế là điều cần thiết, đặc biệt là các dịch bệnh có khả năng lây nhiễm toàn cầu. Thứ ba, một số khái niệm trong Luật vẫn chưa rõ ràng, còn nhiều lỗ hổng. Chẳng hạn, khái niệm cách ly y tế tại khoản 6 Điều 2 của Luật này, việc cách ly y tế chỉ áp dụng cho “người mắc bệnh truyền nhiễm, người bị nghi ngờ mắc bệnh truyền nhiễm, người mang mầm bệnh truyền nhiễm hoặc vật có khả năng mang tác nhân gây bệnh truyền nhiễm”[8]. Tuy trong giai đoạn dịch Covid-19 vừa qua, có thể thấy những cá nhân không có biểu hiện, nghi ngờ hay đi từ vùng dịch về cũng phải cách ly, đặc biệt là trường hợp cách ly 14 ngày đối với mọi đối tượng nhập cảnh vào Việt Nam khi dịch đang có diễn biến phức tạp.

Bên cạnh đó, một số văn bản dưới luật hiện nay quy định chưa thống nhất, đầy đủ và phù hợp với điều kiện thực tế mới của dịch Covid-19. Ví dụ, Luật Phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm năm 2007 cho phép những trường hợp khi có dịch thì không cần phải ban bố tình trạng khẩn cấp bao gồm tổ chức cấp cứu, khám bệnh, chữa bệnh; cách ly y tế; hạn chế ra vào vùng có dịch và được xem như là các biện pháp chống dịch thông thường. Tuy nhiên, điều 24 của Nghị định số 71/2002/NĐ-CP thi hành một số điều của pháp lệnh tình trạng khẩn cấp trong trường hợp có thảm họa lớn, dịch bệnh nguy hiểm lại coi các trường hợp này là các biện pháp chống dịch bệnh nguy hiểm trong tình trạng khẩn cấp. Bên cạnh đó, 2 biện pháp “hạn chế tập trung đông người” đối với tình trạng dịch bệnh thông thường và biện pháp “cấm tập trung đông người” trong tình trạng khẩn cấp tại điểm c, khoản 1 Điều 52 và biện pháp và tại điểm d, khoản 2 Điều 54 của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm 2007 hiện không có hướng dẫn cụ thể nên việc áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính trong thời gian dịch bệnh khó thực hiện khi chỉ hướng theo quy định cấm tập trung đông người[9]. Hoặc là, gần đây, một số văn bản lại quy định thời hạn cách ly cho một số đối tượng đặc biệt lại ngắn hơn 14 ngày tại nơi cách ly tập trung, chẳng hạn như các chuyên gia nước ngoài làm việc ngắn ngày hoặc thành viên tổ bay. Việc thực hiện xét nghiệm 2 lần với các đối tượng này cũng không phù hợp khi chỉ thực hiện tất cả trong vòng 5 ngày làm việc. Tuy nhiên, thực tế cần thấy rằng người nhiễm bệnh chỉ biểu hiện các triệu chứng sau 14 ngày và các đối tượng này cần phải thực hiện việc cách ly y tế tập trung tương tự như người nhập cảnh tại Việt Nam.

Về vấn đề xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật phòng chống bệnh truyền nhiễm, hiện nay các chế tài về vi phạm hành chính được cập nhật, sửa đổi theo tình hình dịch bệnh và đã đủ sức răn đe và giáo dục với những người có hành vi vi phạm. Tuy nhiên, về chế tài hình sự, theo Điều 240 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về “Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người” cụ thể là điểm c, khoản 1 hiện nay chưa được cơ quan có thẩm quyển ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng[10]. Trên thực tế, ngày 30/3/2020, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành công văn số 45/TANDTC-PC cụ thể và liệt kê một số hành vi vi phạm có thể bị xử lý hình sự tại quy định này để tăng cường ý thức pháp luật của người dân trong quá trình phòng chống Covid-19, bao gồm: Trốn khỏi nơi cách ly; Không tuân thủ quy định về cách ly; Từ chối, trốn tránh việc áp dụng biện pháp cách ly, cưỡng chế cách ly; Không khai báo y tế, khai báo không đầy đủ hoặc khai báo gian dối[11] Tuy nhiên, cần xác định rằng công văn hiện nay không phải là văn bản quy phạm pháp luật và vì thế không có giá trị pháp lý để hướng dẫn áp dụng chung trong hoạt động xét xử. Hơn thế nữa, công văn này chỉ đề cập đến nhưng đối tượng nghi ngờ nhiễm và được thông báo cách ly chứ chưa quy định về những người nghi ngờ nhiễm bệnh nhưng chưa được thông báo cách ly. Vì thế các đối tượng này không phải chịu trách nhiệm hình sự dù cho họ hoàn toàn có khả thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự về tội làm lây lan bệnh truyền nhiễm. Về mức phạt, hiện nay theo Bộ luật Hình sự quy định thì người vi pham tội này chỉ chịu hình phạt tù tối đa là 12 năm và được xem là tội rất nghiêm trong. Tuy nhiên, xét theo thực tế, một hành vi nào đó làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm khả năng cao sẽ tác động nguy hiểm đến sức khỏe của nhiều người. Từ đó, sự phát triển kinh tế-xã hội của một quốc gia bị tác đông nghiêm trọng từ hành vi đó và xét ở một góc độ khác nó đã vi phạm sức khỏe cộng đồng và lợi ích chung. Vì thế, hậu quả của tội này gây ra thiệt hại đáng kể và mang tính chất đặc biệt nghiêm trọng. Việc quy định mức phạt về tội này theo Bộ Luật Hình sự hiện hành chưa đủ sức răn đe và giáo dục người phạm tội[12].

3. Kết luận

Mặc dù hiện nay Việt Nam đã kiểm soát được dịch Covid-19, nhưng cuộc chiến với đại dịch này vẫn còn kéo dài. Vì thế, trong quá trình thực hiện chính sách phòng chống dịch bệnh, chúng ta cần phải quan tâm, không lơ là và chủ quan. Đặc biệt, những khó khăn, vướng mắc hiện tại về pháp lý liên quan đến bảo vệ quyền của người bệnh, quyền riêng tư, quyền tiếp cận thông tin và giám sát của người dân, thực thi pháp luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm cần phải được xác định rõ ràng và đưa ra hướng hoàn thiện trong tương lai. Từ đó, thông qua những điều chỉnh phù hợp trong pháp luật, tính hiệu quả trong công tác phòng, chống dịch Covid-19, ý thức của người dân trong việc bảo vệ sức khỏe bản thân và xã hội sẽ được nâng cao. Đồng thời, uy tín của Đảng và Nhà nước đối với người dân sẽ được duy trì để gia tăng sức mạnh đại đoàn kết dân tộc cùng đưa Việt Nam vượt qua sự đe dọa nghiệm trọng của đại dịch Covid-19.

 

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN VÀ THAM KHẢO:

[1] Trần Linh Huân (2020), Bảo vệ quyền lợi của người bị nhiễm Covid-19 theo quy định của pháp luật Việt Nam. http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210488, truy cập ngày 11/12/2020.

[2] Phan Thị Lan Phương (2020), Hoàn thiện pháp luật về quyền bảo vệ đời tư, quyền tiếp cận thông tin, giám sát trực tiếp của người dân trong bối cảnh đại dịch Covid-19 ở Việt Nam, http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210518, truy cập ngày 03/12/2020.

[3] Nguyễn Phương Thảo, Quyền giữ bí mật thông tin sức khỏe của người bệnh, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/nghien-cuu/quyen-giu-bi-mat-thong-tin-suc-khoe-cua-nguoi benh?fbclid=IwAR2JXSVzks4IzvUsMRIXhNIjHlaad0jHYGHv1dF4JHpg4njJp-NZP7JtL18, truy cập ngày 07/11/2020.

[4] Phan Thị Lan Phương (2020), tlđd.

[5] https://ncov.moh.gov.vn số liệu thống kê của Trang tin về dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp covid -19 của Bộ Y tế, truy cập ngày 26/12/2020.

[6] Phan Thị Lan Phương (2020), tlđd.

[7] VOV (2020), Cần sửa Luật Phòng chống bệnh truyền nhiễm khi hết dịch Covid-19?, https://vov.vn/phap-luat/tu-van-luat/can-sua-luat-phong-chong-benh-truyen-nhiem-khi-het-dich-Covid19-1037148.vov, truy cập ngày 03/01/2021.

[8] VOV (2020), tlđd.

[9] Bùi Thu Hằng (2020), Ban hành văn bản trong tình trạng khẩn cấp nhìn từ dịch bệnh Covid- 19, http://lapphap.vn/Pages/TinTuc/210491/Ban-hanh-van-ban-trong-tinh-trang-khan-cap-nhin-tu-dich-benh-Covid--19.html, truy cập ngày 25/12/2020.

[10] Lưu Thị Tươi (2020), Pháp luật về phòng, chống bệnh truyền nhiễm trong công cuộc phòng, chống dịch Covid-19 ở nước ta hiện nay, http://truongchinhtri.danang.gov.vn/?Page=duandetail&idNews=1301, truy cập ngày 02/01/2021.

[11] Lưu Thị Tươi (2020), tlđd.

[12] Lưu Thị Tươi (2020), tlđd.

 

SOME LEGAL SHORTCOMINGS IN THE IMPLEMENTATION OF COVID-19 CONTAINING MEASURES IN VIETNAM

Master. LE HO TRUNG HIEU 1

Master. DINH LE OANH 1

1  Lecturer, Faculty of Law, Van Lang University

ABSTRACT:

Vietnam has been praised globally as a rare success country in the fight against the Covid-19 pandemic with the low-cost approach. Thanks to early responses with the highest stringency, Vietnam won 3 waves of Covid-19. However, there are still some difficulties and problems in the implementation of Covid-19 containing measures. The legal framework of Vietnam on the prevention of infectious diseases has some shortcomings including the rights to privacy of infected people, the penalty levels for the breach of law and the applicable scope of relevant regulations. This paper presents and analyzes some legal shortcomings in the implementation of Covid-19 containing measures in Vietnam.

Keywords: Covid-19, legal framework, problems, difficulties.