Phân bón Văn Điển: Lựa chọn của người trồng chè Phú thọ

Hiện nay, hầu hết các diện tích chè Phú Thọ đã sử dụng phân bón Văn Điển, thậm chí nhiều địa phương đã xây dựng vùng sản xuất chè an toàn, vùng sản xuất chè theo tiêu chuẩn VietGAP

Đặc tính cây chè

Chè là cây thức uống lâu đời, không chỉ Việt Nam mà nhiều nước trên thế giới đã quen dùng. Cây chè thích hợp trên đất có nhiều mùn, độ dày tầng đất từ 60cm trở lên, đất giữ ẩm tốt nhưng phải thoát nước.

Cây chè cho sản phẩm "búp chè", thu hái nhiều lần trong năm với khối lượng chất xanh lớn, bởi vậy cây chè phải cần nhiều chất dinh dưỡng. Các nhà khoa học đã xác định trung bình để đạt 2 tấn chè búp khô/1 ha, cây chè lấy đi khoảng 80kg N, 40kg P2O5, 30kg K2O, 8kg MgO, 16kg CaO và các chất vi lượng như kẽm (Zn), Bo (B), Môlípđen (Mo)... Như vậy, cây chè cần các chất đa lượng gồm đạm (N) cao gấp 2 lần lân (P2O5) và gần 3 lần kali (K2O), đồng thời còn cần các chất dinh dưỡng trung lượng như Mg, Ca, vi lượng Fe, Mn, Zn, Cu, B…

* Nhu cầu về đạm: Đạm là yếu tố dinh dưỡng hàng đầu để nâng cao năng suất chè. Cung cấp đầy đủ đạm, chè phát triển nhanh thân, cành, lá, búp, đâm chồi, nảy mầm ở các nách lá. Nếu thiếu đạm chè còi cọc, cành, lá phát triển kém, chồi, búp ít, tuổi thọ của chè rút ngắn, năng suất thấp. Song, cung cấp quá thừa đạm thì chè xanh mướt, cành nhỏ, lá mỏng, búp bé, dự trữ dinh dưỡng ở trong búp và lá thấp, sức chống chịu kém, dễ nhiễm các loại sâu bệnh gây hại, năng suất thấp, chất lượng giảm.

* Nhu cầu lân: Tuy cây chè cần lân không nhiều bằng đạm, song lại có vai trò quan trọng đối với sinh trưởng phát triển của cây chè. Lân xúc tiến phát triển bộ rễ của cây chè từ lúc mới trồng đến khi chè bước vào giai đoạn sản xuất, đồng thời lân cũng tham gia vào quá trình tổng hợp các chất dinh dưỡng để chè sinh trưởng phát triển và cho sản phẩm búp và lá. Lân còn tham gia vào các quá trình tích lũy chất khoáng hòa tan trong nước. Thiếu lân, chè chậm lớn, khả năng phân cành kém, lâu khép tán. Quá trình tái tạo rễ non (rễ tơ) bị chậm dẫn đến khả năng hấp thụ dinh dưỡng kém làm cho năng suất chè không ổn định.

* Nhu cầu kali: So với đạm và lân thì kali chiếm lượng ít hơn cả, song kali lại có vai trò rất quan trọng giúp cho sự vận chuyển nhanh các chất dinh dưỡng từ đất để quang hợp và tổng hợp các chất dinh dưỡng, đặc biệt ở búp và lá non, kali còn điều tiết sự cân bằng của đạm trong cây chè. Nếu thiếu kali chè mềm yếu, sự phát triển chậm lại, đạm bốc nhiều lên lá, sức đề kháng sâu bệnh kém, chè dễ nhiễm các loại sâu bệnh gây hại. Các kết quả nghiên cứu về phân bón vô cơ cho thấy tỉ lệ N:P:K phù hợp là 2,0:1,0:0,5 tùy theo điều kiện thổ nhưỡng ở từng vùng.

* Nhu cầu về canxi: Tuy cây chè thích hợp ở điều kiện pH từ 4,5 – 5 nhưng thực tế đất trồng chè hiện nay ở các tỉnh miền núi phía Bắc lại hầu hết là đất rất chua, có độ pH < 4, nên canxi có một vai trò quan trọng là khử chua tạo môi trường đất phù hợp với yêu cầu của cây chè đồng thời canxi còn tham gia tổng hợp các chất dinh dưỡng để cây chè phát triển.

* Nhu cầu magie: Mg có một vai trò đặc biệt quan trọng để nâng cao hiệu suất quang hợp, chè là cây cho sinh khối lớn chủ yếu là búp và lá cho nên việc tái tạo diệp lục sẽ quyết định năng suất và chất lượng chè. Nếu thiếu Mg, chè phát triển ít lá, ít búp, lá mỏng và bé, thường màu lá xanh thẫm, búp nhỏ dẫn tới năng suất, chất lượng kém. Bón đủ Mg cho chè sẽ làm cho việc tái tạo các chất diệp lục gia tăng từ đó cây chè phát triển nhiều mầm, nhiều búp, lá dày, sáng bóng, tích lũy các chất dinh dưỡng cao ở búp làm tăng năng suất và chất lượng chè.

* Nhu cầu các chất vi lượng gồm kẽm, sắt, mangan, đồng và bo… có tác dụng tham gia cấu tạo các men để xúc tác hình thành các hợp chất khoáng, các hợp chất vitamin, các hợp chất ta nanh trong búp và lá quyết định hương vị và chất lượng của chè. Nếu thiếu hụt các chất vi lượng sẽ làm cho cây chè giảm sút về chất lượng.

Phú Thọ là tỉnh trung du miền núi, có điều kiện khí hậu, đất đai thuận lợi cho cây chè phát triển. Tuy nhiên, đất trồng chè ở Phú Thọ đại bộ phận là đất dốc, tầng đất canh tác mỏng  50-70cm. Mùa mưa đất đai bị rửa trôi, xói mòn, mùa khô cây chè gặp hạn trầm trọng. Do vậy, để thâm canh chè tốt, ngoài việc sử dụng phân hữu cơ rất cần các loại phân vô cơ, phân khoáng tự nhiên vừa đảm bảo cung cấp đầy đủ và cân đối các chất dinh dưỡng đa lượng và trung vi lượng; vừa đảm bảo phân chậm tan hoặc không tan trong nước nhằm hạn chế thất thoát do địa hình.

Tính ưu việt của phân bón Văn Điển

Phân nung chảy Văn Điển được phối hợp tinh tế 3 loại quặng: Apatít, Secpentyl, sa thạch, với công nghệ nung chảy ở nhiệt độ 1450oC và làm lạnh đột ngột đã cho ra sản phẩm phân bón đa dinh dưỡng, trong đó P2O5 15-19%, MgO 15-18% ,SiO2 24-32%, CaO 28-34%, và nhiều chất vi lượng Fe, B, Mn, Zn, Co, Cu, Mo… giàu chất kiềm và kiềm thổ nên là loại phân bón có tính kiềm tiềm tàng; phân không tan trong nước nên không bị rửa trôi, chỉ khi cây tiết acid hoặc trong môi trường chua thì phân mới tan và phóng thích ra các Ion A++ vừa có tác dụng khử chua vừa bồi dục đất nông nghiệp, điều chỉnh môi trường đất về trạng thái phù hợp hơn với cây trồng nói chung và cây chè nói riêng. Kết hợp với các chất đạm, kaly và các nguyên tố vi lượng để sản xuất ra các sản phẩm phân đa yếu tố (ĐYT) NPK 5:10:3 chuyên bón lót và ĐYT NPK chuyên bón thúc cho chè kinh doanh...; hoặc công thức 22:5:11, với tổng hàm lượng dinh dưỡng lên trên 60%; ngoài các chất dinh dưỡng đa lượng (N, P2O5, K2O), các chất trung lượng (CaO, MgO, SiO2, S… còn có các chất vi lượng như Cu, Mn, Bo, Co, Mo, Zn... rất cần thiết cho sự phát triển của cây chè mà các loại phân bón khác không có.

Phân bón Đa yếu tố NPK Văn Điển vượt trội hơn tất cả các loại phân bón khác ở chỗ cân đối dinh dưỡng đa lượng NPK, giàu dinh dưỡng trung lượng: Vôi chiếm trên 10% vừa khử chua đất, điều chỉnh độ pH phù hợp với môi trường của cây chè, đồng thời cung cấp canxi cho cây. Lượng magie trong phân cũng chiếm từ 5-7% giúp cho cây chè tăng hiệu suất quang hợp tích lũy nhiều dinh dưỡng vào búp và lá.., Các yếu tố silic và lưu huỳnh cũng chiếm tỷ lệ cao  trên 8-13% làm cho đất tơi xốp thông thoáng, giúp bộ rễ phát triển nhanh, nâng cao khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng, tổng hợp các chất khô. Các nguyên tố vi lượng giúp cho cây chè tổng hợp các vitamin tạo hương vị thơm đặc trưng. Chè được bón phân ĐYT NPK Văn Điển thỏa mãn cả chu kỳ niên vụ, giúp cây khỏe, ít sâu bệnh, năng suất cao đặc biệt giảm tối đa thuốc bảo vệ thực vật, nâng cao chất lượng chè sạch cho người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.  

Hiệu quả mô hình Phân bón Văn Điển – cây chè Phú Thọ

Vào những năm 1990, tỉnh Phú Thọ xây dựng hai công ty chè liên doanh với nước ngoài là Công ty chè Phú Đa và Công ty chè Phú Bền. Qua phân tích hóa lý tính đất trồng chè Phú Thọ và nhu cầu dinh dưỡng của cây chè; các chuyên gia Ấn Độ đã lựa chọn phân bón Văn Điển. Vì vậy, từ lâu 2 công ty này đã sử dụng phân lân nung chảy Văn Điển và phân bón đa yếu tố NPK chuyên dùng cho chè. Đó cũng là yếu tố cơ bản tạo năng suất chè của 2 công ty này cao gấp 3 lần năng suất chè trung bình của tỉnh.

Trong 2 năm 2011 - 2012, Viện KHKT Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc đã tiến hành thực nghiệm “Nghiên cứu tác dụng của phân bón đa yếu tố NPK Văn Điển cho chè SX kinh doanh (SXKD) tại Phú Hộ - Phú Thọ”  cho kết quả rất tốt; không chỉ cho năng suất, chất lượng cao hơn mà còn giảm chi phí sản xuất trên đơn vị sản phẩm. Do vậy, hiện nay phân bón đa yếu tố NPK Văn Điển được nhiều đơn vị như: Viện KHKTNLN miền núi phía Bắc, Công ty Chè Phú Đa, Phú Bền (Phú Thọ)… sử dụng như một giải pháp nâng cao năng suất, chất lượng cho cây chè.

Tuy vậy, trong sản xuất chè đại trà của tỉnh vẫn còn không ít nông dân làm theo tập quán canh tác lạc hậu, nhất là việc lựa chọn phân bón không phù hợp và cách bón không đúng kỹ thuật đã làm hạn chế tiềm năng và lợi thế cây chè Phú Thọ. 

Gắn lưỡi cày vào càng trước bánh xe đạp, đẩy công cụ giữa 2 hàng chè để tạo rạch bón phân.

Gần đây, Sở NN&PTNT Phú Thọ chỉ đạo TT Khuyến nông tỉnh triển khai nhiều mô hình sử dụng phân bón Văn Điển, loại đa yếu tố NPK chuyên dùng cho chè:

Năm 2015 triển khai mô hình 3ha tại xã Vân Lĩnh huyện Thanh Ba và mô hình 3ha tại xã Võ Miếu huyện Thanh Sơn.

Năm 2016 triển khai mô hình bón phân chuyên dùng cho chè kinh doanh với giống PH1 tại xã Ngọc Lập (Yên lập) và xã Ca Đình (Đoan Hùng).

Với mức bón từ 60 - 80kg/sào/năm tuỳ theo điều kiện thổ nhưỡng và tiềm năng năng suất chè búp. Hàng năm bón làm 3 lần: Lần 1 vào tháng 2, bón 40% lượng phân. Lần 2 bón vào tháng 5 khoảng 30%, lần 3 vào tháng 7, tháng 8 hết số phân còn lại.

Cách bón: Chọn ngày tạnh ráo (trước khi trời mưa hoặc sau khi đất còn ẩm, không nên bón khi trời nắng nóng), ghé lưỡi cuốc tạo rạch sâu 3-5cm giữa 2 hàng chè rồi rải phân, tuyệt đối không bón phân trên tán lá, sau đó lấp đất, phủ rác. Nhiều nông dân đã dùng công cụ cải tiến bằng cách  gắn lưỡi cày vào càng trước bánh xe đạp, đẩy công cụ giữa 2 hàng chè để tạo rạch bón phân. Như vậy  người lao động ít bị nhức tay mà năng suất cao hơn rất nhiều.

Mô hình sử dụng phân bón chuyên dùng Văn Điển chè đanh búp, ngoại hình của các mẫu chè có thoáng tuyết, chè có màu xanh lá gừng không xanh đậm như bón phân truyền thống, tăng khả năng chống chịu sâu bệnh, số lần phun thuốc giảm so với lô đối chứng  3 lần, (so với đại trà của nông dân trồng chè ngoài mô hình số lần phun thuốc giảm 4-5 lần). Tổng chi phí BVTV trong mô hình là 1.623.000,00đ/ha trong khi ô đối chứng hết 2.285.000đ/ha.

Trên nương chè gia đình ông Phạm Ngọc Quỳnh rộng 5.000m2,  sau 4 lứa hái đạt năng suất 18.830kg/ha, trong khi ô đối chứng đạt 18.350 kg/ha

Nương chè nhà ông Nguyễn Vệ Nam, trên diện tích 2.500m2, sau 4 lứa hái đạt năng suất 18.800kg/ha, trong khi ô đối chứng đạt 18.380 kg/ha

Tương tự trên nương chè ông Phạm Quốc Ngọ, diện tích 2.500m2 đạt 18.880kg/ha và đối chứng đạt  18.340kg/ha

Tính trung bình 3 nương chè trên diện tích 1ha, bón phân ĐYT NPK Văn Điển, năng suất chè đạt 18.835kg/ha trong khi bón phân khác chỉ đạt 18.350 kg chè búp tươi/ha. Hơn nữa sử dụng phân chuyên dùng Văn Điển cho chè, khi sao chè chỉ tốn khoảng 4 - 4,25 kg búp tươi để được 1 kg chè khô, trong khi chè canh tác theo truyền thống phải 5 kg búp tươi mới cho 1 kg chè khô

Như vậy, mô hình 1ha chè PH1 tại xã Ngọc Lập huyện Yên Lập Phú Thọ được bón phân bón ĐYT NPK Văn Điển so với bón các loại phân khác làm đối chứng cho thấy: Chi phí phân bón và thuốc BVTV giảm 10.722.000 đ/ha; công lao động giảm khoảng 660.000 đ/h; năng suất tăng 485kg chè búp tươi/ha. Tại thời điểm giá chè búp tươi 5.000,000 đ/kg đã tăng thêm 2.425.000 đ/ha.

Tuy chưa tính được tác dụng cải tạo và bồi dục đất trồng chè khi bón phân ĐYT NPK Văn Điển, song giảm phân bón và thuốc phòng trừ sâu bệnh là đã bảo vệ mội trường sinh thái, đồng thời giảm công lao động  mà hiệu quả kinh tế tăng trên 13 triệu đồng mỗi ha chè.

Kết quả các mô hình và thực tế đồi nương, nhân dân các xã trong tỉnh tin tưởng lựa chọn phân bón văn Điển cho cây chè. Hiện nay hầu hết các diện tích chè Phú Thọ đã sử dụng phân bón Văn Điển, thậm chí nhiều địa phương đã xây dựng vùng sản xuất chè an toàn, vùng sản xuất chè theo tiêu chuẩn VietGAP.

Cùng với cơ chế thị trường và cơ chế khoán quản, chuyển nhượng… người sản xuất chè đã thực sự trăn trở và tâm huyết hơn với cây chè. Qua bao thăng trầm theo năm tháng, Thương hiệu phân lân nung chảy Văn Điển và phân bón Đa yếu tố NPK Văn Điển đã được khẳng định trên vùng đất chuyên canh cây chè tại tỉnh Phú Thọ.

KS. Nguyễn Tiến Chinh