Tác động của đại dịch SARS-CoV-2 đối với hoạt động giáo dục tại Trường Đại học Trà Vinh

NGUYỄN VĂN NGUYỆN (Viện Phát triển nguồn nhân lực - Trường Đại học Trà Vinh)

TÓM TẮT:

Đại dịch SARS-COV-2 diễn ra không những ảnh hưởng đến hệ thống giáo dục và đào tạo, mà còn ảnh hưởng đến khả năng tương thích của người học. Bài viết nghiên cứu tác động của việc học tập trực tuyến khác nhau của sinh viên tại Trường Đại học Trà Vinh nhằm nêu rõ những nỗ lực của Nhà trường trong việc thực hiện các lớp học trực tuyến bao gồm đánh giá chủ quan và khách quan, trải nghiệm học tập và sự quan tâm của sinh viên khi tham dự các lớp học trực tuyến; từ đó đưa ra các giải pháp nhằm cải thiện chất lượng học tập trực tuyến.

Từ khóa: Đại dịch SARS-COV-2, giáo dục trực tuyến, cơ sở giáo dục đại học.

1. Đặt vấn đề

Vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) đã có văn bản yêu cầu các Sở GD&ĐT, cơ sở giáo dục đại học thực hiện một số nội dung nhằm đảm bảo an ninh, an toàn trong dạy và học trực tuyến. Học trực tuyến chính là sự chuyển đổi từ các lớp học mặt đối mặt thông thường [4, 8, 10] sang hình thức học tập thông qua internet hoặc các phương tiện truyền thông điện tử khác. Đây là môi trường có khả năng chia sẻ cao, vận hành không phụ thuộc vào không gian, thời gian, tạo điều kiện để mọi người trao đổi, tìm kiếm, học tập một cách dễ dàng. Các lớp học trực tuyến nhằm giải quyết điểm yếu trên một lộ trình học tập đồng nhất phù hợp với tất cả trong việc cải thiện kết quả học tập [6].

Điểm khác biệt duy nhất là việc sinh viên và giảng viên áp dụng công nghệ vào dạy và học, những khía cạnh khác vẫn giữ nguyên. Hơn hẳn các lớp học truyền thống, lợi thế của các lớp học trực tuyến bao hàm cả tính linh hoạt [1] và việc truyền tải theo địa lý đến mọi nơi ngay lập tức. Tính năng điểm danh tự động làm phong phú thêm hoạt động trải nghiệm học tập và hợp tác [9] giữa giáo viên và học sinh trên cả nước. Các lớp học trực tuyến cung cấp nhiều công cụ giao tiếp hơn bao gồm trò chuyện, nhóm, diễn đàn thảo luận, kênh truyền thông xã hội và liên lạc đa phương tiện. Sinh viên có thể học thông qua nhiều thiết bị khác nhau, như: điện thoại thông minh, máy tính bảng, máy tính xách tay và các thiết bị thông minh khác.

Một số chiến lược được áp dụng cho giảng dạy trực tuyến, đánh giá quá trình và các kỳ thi trong hệ thống giáo dục trực tuyến nhằm giúp giáo viên và học sinh áp dụng nhanh hơn và dễ dàng hơn. Các lớp học trực tuyến phát triển gắn với công nghệ truyền thông và thông tin đảm bảo đã cải thiện việc tiếp thu và phát triển kiến thức và kỹ năng ở nhiều vùng xa xôi hẻo lánh.

Bài viết nghiên cứu tác động của việc học tập trực tuyến khác nhau của sinh viên tại Trường Đại học Trà Vinh nhằm bàn luận về những nỗ lực của Nhà trường trong việc thực hiện các lớp học trực tuyến bao gồm đánh giá chủ quan và khách quan, trải nghiệm học tập và sự quan tâm của sinh viên khi tham dự các lớp học trực tuyến.   

2. Phương pháp nghiên cứu

Toàn bộ nghiên cứu được thực hiện dưới dạng phân tích nhân tố [2, 3, 5, 7] liên quan đến việc phân tích lớp học trực tuyến trong việc phát triển khả năng và kỹ năng học tập của học sinh. Nghiên cứu thu thập bảng câu hỏi và chuyển đổi thang đo năm điểm Likert thành các biến số từ cao nhất đến thấp nhất. Các biến sau đó được giảm xuống thành các yếu tố nổi bật và sau đó phân tích nhân tố được thực hiện bằng phương pháp phân tích thành phần chính tìm ra các yếu tố cần thiết để phát triển các kiến thức và kỹ năng của học sinh thông qua các lớp học trực tuyến.

Nghiên cứu xem xét một số biến bao gồm: (1) Lý do tham gia Học tập trực tuyến?, (2) Làm thế nào để truy cập vào lớp học trực tuyến?, (3) Khó khăn về mặt kỹ thuật trong học tập trực tuyến, (4) Khó khăn khi nộp bài tập trực tuyến, (5) Tính linh hoạt của người tham gia trong các phương thức học tập, (6) Mức độ sử dụng lớp học trực tuyến theo sinh viên trong các trường hợp khác nhau, (7) Mức độ hài lòng về các lớp học trực tuyến [11], (8) Nhận thức tương lai của sinh viên về lớp học trực tuyến, (9) Hiệu quả của lớp học trực tuyến đối với sinh viên dựa trên các đánh giá chủ quan và khách quan theo quan điểm của giảng viên.

3. Kết quả nghiên cứu

Theo kết quả điều tra, số người trả lời nhiều nhất là sinh viên với 2.055 người, giảng viên tham gia trả lời nghiên cứu là 100 người. Đồng thời, hầu hết các sinh viên (n = 1044) đã dành hơn 4 tiếng cho các lớp học trực tuyến và một số người trả lời (n = 700) trong vòng 4 tiếng và tỷ lệ rất ít cho số giờ là 3, 2 và 1 tiếng (240, 103, 68).

Bảng 1. Lý do tham gia các lớp học trực tuyến

Lý do tham gia các lớp học trực tuyến

Theo thống kê tại Bảng 1, hầu hết những người trả lời đều hài lòng với các chủ đề được lựa chọn trong nghiên cứu, hài lòng với cách các giảng viên truyền tải bài học, hài lòng với sáng kiến lớp học trực tuyến của Trường và dành thời gian của họ để có trải nghiệm học tập tốt hơn.

Phần lớn người trả lời sử dụng điện thoại thông minh và máy tính bảng, chỉ có một số sinh viên sử dụng máy tính bàn và máy tính xách tay để truy cập vào lớp học trực tuyến.

Bảng 2. Làm thế nào để truy cập vào lớp học trực tuyến

Làm thế nào để truy cập vào lớp học trực tuyến

Bảng 3 cho thấy hầu hết các vấn đề phổ biến trong lớp học trực tuyến là việc kết nối âm thanh/video và kết nối internet kém. Gần một nửa số người được hỏi đã nêu các vấn đề với việc đăng nhập vào cổng thông tin và một số khác đề cập về các tính năng tương tác. Tuy nhiên, hầu hết những người trả lời đã không gặp khó khăn tại thời điểm được hỏi (tức là vài ngày sau khi áp dụng với toàn bộ môi trường lớp học trực tuyến).

Bảng 3. Khó khăn về mặt kỹ thuật trong phương thức học trực tuyến

Khó khăn về mặt kỹ thuật trong phương thức học trực tuyến

Tuy nhiên, theo kết quả điều tra, hầu hết sinh viên đều gặp khó khăn trong việc nộp các bài tập trực tuyến thông qua cổng thông tin học tập từ xa với kết quả lần lượt là: Rất cao (273), Cao (744), Trung bình (690), Thấp (389), Rất thấp (59).

Bảng 4. Tính linh hoạt của người tham gia trong các phương thức học tập

Tính linh hoạt của người tham gia trong các phương thức học tập

Trong giai đoạn đầu của lớp học trực tuyến, cách học trực tiếp có mức độ linh hoạt cao hơn và việc nhận thức tiếp tục giảm nhẹ khi các sinh viên tiếp tục trải nghiệm bản chất thực của trải nghiệm lớp học trực tuyến (Bảng 4). Cuối cùng, một nửa số người được hỏi đã ghi nhận rằng cả nền tảng học tập trực tuyến và trực tiếp đều đủ giá trị để học trong suốt thời gian bị đình chỉ.

Bảng 5. Mức độ sử dụng lớp học trực tuyến theo sinh viên trong các trường hợp khác nhau

Mức độ sử dụng lớp học trực tuyến

Khi đánh giá về mức độ hài lòng của các lớp học trực tuyến, đa phần sinh viên đánh giá ở mức độ cao (1.004 phiếu), mức trung bình (639), thấp (283), rất cao (167), và rất thấp (62). Tuy nhiên, kết quả điều tra cũng cho thấy, hầu hết sinh viên lựa chọn sẽ sử dụng các lớp học trực tuyến cho việc học tập trong tương lai.

Bảng 6. Nhận thức tương lai của sinh viên về lớp học trực tuyến

Nhận thức tương lai của sinh viên về lớp học trực tuyến

4. Phân tích yếu tố

Nghiên cứu coi sự cải thiện về kỹ năng và kiến thức (ISK) là biến phụ thuộc và tập hợp các biến thông qua thí điểm và nghiên cứu chính được coi là các biến dự báo bao gồm: Khó khăn trong học tập và giao nhiệm vụ trực tuyến (DOLA), Phương thức linh hoạt của sinh viên (SFM), Vùng địa lý sinh viên (SG), Sự hài lòng của lớp học trực tuyến (OCS), Nhận thức về lớp học trực tuyến (OCP) và Đánh giá năng lực đầu ra của sinh viên (SAO).

7 biến số (ISK, DOLA, SFM, SG, OCS, OCP và SAO) được kiểm tra để phân phối độ lệch và mất trật tự do chúng không được phân phối bình thường và do sự có mặt không thường xuyên. Do đó, phương trình hồi quy được biểu diễn như sau:

ISK = Hệ số chặn + β1*DOLA + β2*SFM + β3*SG + β4*OCS + β5*OCP + β6*SAO

Phân phối ISK và phân phối 6 yếu tố dự đoán không được phân phối chuẩn và độ lệch và sự mất tự lần lượt được đưa ra trong Bảng 7.

Bảng 7. Độ lệch và Sự mất trật tự

Độ lệch và Sự mất trật tự

Tóm tắt mô hình hồi quy với R2 hiệu chỉnh được đưa ra trong Bảng 8.

Bảng 8. Mô hình hồi quy

Mô hình hồi quy

Các hệ số hồi quy của các biến độc lập và hệ số chặn được đưa ra trong Bảng 9. Các biến có giá trị thống kê t tuyệt đối > 2 được coi là có ý nghĩa thống kê. Hiển thị rõ ràng từ giá trị p của trị thống kê t < 0,05.

Bảng 9. Hệ số chặn và các biến độc lập

Hệ số chặn và các biến độc lập

Các kết quả thử nghiệm ANOVA được sử dụng để đánh giá chuẩn mạnh của mô hình hồi quy như trong Bảng 10.

Bảng 10. Tổng hợp phân tích ANOVA

Tổng hợp phân tích ANOVA

Sự hiện diện của tự tương quan trong mô hình hồi quy được thực hiện bằng phép thử thống kê Durbin-Watson, trong đó giá trị của nó nằm dọc theo giá trị p như trong Bảng 11.

Bảng 11. Thống kê Durbin-Watson

Thống kê Durbin-Watson

Từ giá trị R2 hiệu chỉnh, biến dự đoán có thể giải thích sự thay đổi đáng kể của ISK khoảng 64,2%. Mô hình hồi quy thể hiện độ mạnh về mặt thống kê sau khi tìm ra sự bác bỏ giả thuyết không của trị thống kê F. Mô hình thống kê Durbin-Watson tránh được vấn đề tự tương quan, trong đó giá trị gần với 2 hơn và nó chấp nhận giá trị 0. Giá trị R2 hiệu chỉnh chỉ ra rằng hơn 90% biến thể ISK là do biến thể của các biến dự đoán. Điều này cho thấy ISK đang bị ảnh hưởng lớn bởi các biến dự đoán. Các biến dự đoán là DOLA, SFM, OCP và SAO có ý nghĩa thống kê và trong số tất cả các biến thứ cấp, DOLA tỷ lệ nghịch với chỉ số và nó cho thấy rất ít DOLA tác động nhiều hơn đến kỹ năng và kiến thức của sinh viên. Các biến khác: SFM, OCP và SAO có liên quan rõ ràng với ISK.

5. Tổng kết

5.1. Thành quả nghiên cứu

Đánh giá trải nghiệm lớp học trực tuyến thời kỳ hậu đại dịch 2 tháng tại Trường cho thấy sự chuyển đổi từ học truyền thống sang lớp học trực tuyến đã tạo những tác động tích cực, được nêu dưới đây:

  1. Với các kỹ năng và kiến thức hiện có, sinh viên và giảng viên được trau dồi hơn nữa theo cách giúp sinh viên ứng phó với khối lượng kiến thức về các bài học và bài tập bị bỏ lỡ.
  2. Việc áp dụng các mẫu bài tập mới đã phản ánh tích cực việc sinh viên có vốn hiểu biết tốt hơn và sinh viên đã đưa ra một số giải pháp mới để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
  3. Bằng việc đưa ra phản hồi dựa trên các bài tập/ hoạt động nhóm của sinh viên thì tính hiệu quả bài tập được tăng lên.
  4. Trong suốt thời kỳ hậu đại dịch, hầu hết các sinh viên hoàn thành hết được các mục tiêu bài tập đã đạt điểm cao trong các bài tập nhóm và bài tập cá nhân.
  5. Quan trọng nhất, các sinh viên quan tâm đến việc sử dụng các diễn đàn công cụ miễn phí trực tuyến hơn là các công cụ trả phí cho việc học tập, nộp bài tập và làm bài kiểm tra nhóm và cá nhân.

5.2. Kiến nghị

Việc cải thiện các lớp học trực tuyến chất lượng cao giúp các lớp học ảo và liên quan đến ý nghĩa trực tiếp đối với việc học trực tiếp thông thường, các sửa đổi sau đây phải được áp dụng cho sinh viên.

  1. Khả năng của học sinh sẽ được kiểm tra thêm khi Trường hoạt động trở lại sau lệnh phong tỏa, do đó giảng viên nên kiểm tra xem liệu một kỹ năng mà học sinh lĩnh hội có thỏa mãn kiến thức của họ trong thời kỳ hậu đại dịch hay không.
  2. Việc phân loại sinh viên là một vấn đề khác liên quan đến tính căn nguyên trong các bài tập trực tuyến của sinh viên, tham dự các lớp học và các kỳ thi. Do đó, các lớp học trực tuyến nên được phục vụ với các thiết kế đặc biệt hoặc các mẫu mới, để thu hút các sinh viên mà không quan tâm đến các lớp học để học, làm bài tập về nhà và làm bài kiểm tra.
  3. Phương pháp học tập trên lớp trực tuyến với các giải pháp mới thông qua các diễn đàn ảo sẽ nâng cao kiến thức và kỹ năng của sinh viên nhiều hơn so với học trực tiếp thông thường.
  4. Việc đảm bảo chất lượng cho các lớp học riêng lẻ trong tương lai cần được áp dụng một cách tất yếu trong việc tiếp tục quá trình giáo dục trực tuyến với sự phát triển hợp lý về các giải pháp mới hơn (phương pháp giảng dạy), mô hình và ý tưởng. Điều này thực sự có tiềm năng trong việc cho phép các sinh viên đang theo chương trình đào tạo thạc sĩ và nghiên cứu sinh được bảo toàn với hướng dẫn của họ.
  5. Công trình nghiên cứu đề xuất các công cụ như WebEx, Google Meet, Microsoft nhóm được tích hợp với lớp học trực tuyến. Các biện pháp hoặc công cụ sẽ được thực hiện/tạo ra để phát triển các mô phỏng phòng thí nghiệm trực tuyến cụ thể cho một nghiên cứu để đạt được chương trình giảng dạy.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Ana-Maria Bliuc, Peter Goodyear, Robert A. Ellis. (2007). Research focus and methodological choices in studies into students' experiences of blended learning in higher education. The Internet and Higher Education, 10(4), 231-244.
  2. Todd M Davis, Patricia H Murrell. (1990). Joint factor analysis of the College Student Experiences Questionnaire and the ACT COMP objective exam. Research in Higher Education, 31(5), 425-441.
  3. Steven M LaNasa, Alberto F Cabrera, Heather Trangsrud. (2009). The construct validity of student engagement: A confirmatory factor analysis approach. Research in Higher Education, 50(4), 315-332.
  4. Rajiv Malkan, Michael J Pisani, Practice. (2011). Internationalizing the community college experience. Community College Journal of Research, 35(11), 825-841.
  5. Lin Y Muilenburg, Zane L Berge. (2005). Student barriers to online learning: A factor analytic study. Distance education, 26(1), 29-48.
  6. Hoi Kwan Ning, Kevin Downin. (2012). Influence of student learning experience on academic performance: The mediator and moderator effects of self-regulation and motivation. British Educational Research Journal, 38(2), 219-237.
  7. Anders Norberg, Charles D Dziuban, Patsy M. Moskal. (2011). A time -based blended learning model. On the Horizon, ISSN 1074-8121, 19(3), 207-216.
  8. Petter Nyman, Gary Sheridan, Patrick NJ Lane. (2010). Synergistic effects of water repellency and macropore flow on the hydraulic conductivity of a burned forest soil, south-east Australia. Hydrological Processes, 24(20), 2871-2887.
  9. Regina Pauli, Changiz Mohiyeddini, Diane Bray, Fran Michie, Becky Street. (2008). Individual differences in negative group work experiences in collaborative student learning. International Journal of Experimental Educational Psychology, 28(1), 47-58.
  10. Tran, Ly Thi and Marginson, Simon. (2018). Internationalisation of Vietnamese higher education: An overview. In Tran, Ly Thi and Marginson, Simon (ed), Internationalisation in Vietnamese higher education. Switzerland: Springer, Cham, 1-16, doi: 10.1007/978-3-319-78492-2_1.
  11. Xiao-Wei Zhang, Xiao-Jing Yan, Zi-Ren Zhou, Fei-Fei Yang, Zi-Yu Wu, Hong-Bin Sun, Wen-Xue Liang, Ai-Xin Song, Valérie Lallemand-Breitenbach, Marion J Science Jeanne. (2010). Arsenic trioxide controls the fate of the PML-RARá oncoprotein by directly binding PML. Medicine. Poisonous contacts, 328(5975), 240-243.

IMPACTS OF THE COVID-19 PANDEMIC

ON THE TEACHING ACTIVITIES OF TRA VINH UNIVERSITY

• NGUYEN VAN NGUYEN

Institute of Human Resources Development

Tra Vinh University

ABSTRACT:

The on-going Covid-19 pandemic does not only affect the education and training institutions but also the student's compatibility. This paper examines the impact of different online learning methods of students at Tra Vinh University. This paper presents Tra Vinh University’s efforts in conducting online classes with subjective and objective assessments. In addition, this paper presents the learning experiences and the interests of students when attend online classes. Based on this paper’s findings, some solutions are proposed to help Tra Vinh University improve its online teaching quality.

Keywords: Covid-19 pandemic, online education, higher education institution.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 23, tháng 9 năm 2020]