Thiết lập chuỗi cung ứng mới với các FTA

Với việc tiên phong mở rộng các thị trường FTA lên tới 60 nền kinh tế, chiếm 75% kim ngạch mậu dịch toàn cầu, các FTA mà Việt Nam đang thực thi đã bổ trợ cho nhau, giúp Việt Nam chủ động phân tán rủi ro, thiết lập chuỗi cung mới, tạo sức ép buộc ngành công nghiệp hỗ trợ cho các ngành hướng về xuất khẩu phải đổi mới, phát triển.

Phân tán rủi ro

Doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường FTA được hưởng những cam kết cắt giảm thuế quan ở mức cao, phần lớn trên 90% số dòng thuế. Do đó, xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng tăng trưởng mạnh ở các thị trường FTA, có thị trường tăng trên dưới 30% trong 9 tháng đầu năm 2019 như Canada, Mexico.

Cùng với đó, điều vô cùng thuận lợi là dư địa của các thị trường FTA còn rất nhiều. Cụ thể, lớn nhất là thị trường Trung Quốc, năm 2018 chúng ta mới xuất khẩu 41 tỷ USD/2078 tỷ USD, chiếm 1,9% tổng kim ngạch nhập khẩu của Trung Quốc. Tương tự như vậy là các thị trường lớn như Nhật Bản, xuất khẩu Việt Nam mới chiếm 2,8% dung lượng thị trường; xuất khẩu sang Hàn Quốc chiếm 3%; Australia chiếm 1,7%; Singapore chiếm 1%; Canada 0,9%; Malaysia 2,7%; Mexico 1,1%...

Đó là những con số có tính thuyết minh mạnh mẽ về lợi ích và cơ hội trong tương lai của thị trường FTA đối với xuất khẩu nước ta. Tuy nhiên, xuất khẩu sang thị trường FTA còn mang lại nhiều lợi ích kinh tế mang tính nền tảng, dù không có những thống kê về số liệu.

Trước hết, thị trường FTA tạo cơ hội cho Việt Nam cơ cấu lại thị trường xuất khẩu, nhập khẩu. Hiện nay, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu với khu vực châu Á (chiếm khoảng 80% kim ngạch nhập khẩu và 50% kim ngạch xuất khẩu). Các FTA mới sẽ giúp doanh nghiệp nước ta thâm nhập, khai thác các thị trường mới, phân tán rủi ro khi thương mại bị lệch quá nhiều về một, hai đối tác.

chuoi cung ưng FTA
 Nhiều ngành sản xuất trong nước đã chủ động được nguồn nguyên liệu

Một ví dụ điển hình là xuất khẩu nông, lâm, thủy sản nước ta phụ thuộc nhiều vào thị trường Trung Quốc. Năm 2018, kim ngạch mặt hàng này sang Trung Quốc 11 tỷ USD, chiếm 27% trên tổng kim ngạch 40,5 tỷ USD cả nước. Nhưng từ cuối 2018 Trung Quốc đã cơ cấu lại bộ máy quản lý, sáp nhập Tổng cục Giám sát chất lượng, kiểm nghiệm, kiểm dịch quốc gia (AQSIQ) về Tổng cục Hải quan Trung Quốc nhằm quản lý chất lượng hàng hóa nhập khẩu theo ngành dọc, với trọng tâm là tăng cường giám sát, thực hiện nghiêm quy định nhập khẩu.

Như hàng nhập khẩu phải từ cơ sở nuôi trồng, chế biến nằm trong danh sách đã được Trung Quốc đồng ý cho xuất khẩu; phải có chứng thư an toàn thực phẩm do Cục Quản lý chất lượng nông, lâm sản và thủy sản cấp... Nên trong thời gian qua, mặt hàng nông, lâm thủy, hải sản của Việt Nam xuất sang Trung Quốc giảm 10,5%, kéo theo tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản cả nước tăng chững lại, đạt 30 tỷ USD, chỉ tăng 2,7% trong 9 tháng đầu năm 2019 (cùng kỳ 2018 tăng 10%).

Nhìn trên tổng thể, tại thời điểm hiện nay, xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đang chiếm 17% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong khi nhập khẩu từ thị trường này cao hơn, chiếm 27% tổng giá trị nhập khẩu. Với nhiều FTA thế hệ mới, chúng ta có nhiều cơ hội xử lý, phân tán được sự phụ thuộc mang tính rủi ro này.

Thiết lập chuỗi cung ứng mới

Thị trường FTA còn tạo cơ hội tham gia chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu cho doanh nghiệp nước ta. Quá trình hình thành chuỗi cung ứng mới đối với Việt Nam càng được đẩy nhanh trong bối cảnh thương chiến Mỹ - Trung. Ngày 28/8, Google tiết lộ sẽ chuyển dây chuyền sản xuất điện thoại thông minh Pixel sang Việt Nam. Ngoài Google còn có hơn 50 tên tuổi lớn khác từ Apple đến Nintendo, Dell, Lovesac… đã chuyển đi hoặc thu hẹp quy mô sản xuất tại Trung Quốc, và tìm cách chuyển dây chuyền sang các nước khác, mà địa điểm được ưu tiên hàng đầu là Việt Nam, tiếp theo là Ấn Độ, Malaysia, Indonesia…

Vì sao Việt Nam được ưu tiên lựa chọn như một mắt xích trong chuỗi cung ứng mới? Lý do hàng đầu được các doanh nghiệp kể ra bao giờ cũng là vì Việt Nam được coi là nước tiên phong mở cửa nhất trong khu vực khi có trong tay 10 FTA đang thực thi với 60 nền kinh tế, chiếm 75% tổng kim ngạch thương mại thế giới; là 1 trong 3 nước ASEAN ký kết FTA thế hệ mới CPTPP; 1 trong 2 nước ASEAN ký kết FTA với EU. Vì thế, khi đầu tư vào Việt Nam, doanh nghiệp nghiễm nhiên được hưởng ưu đãi tại các thị trường FTA mà Việt Nam ký kết.

chuoi cung ưng FTA
 Thị trường FTA tạo cơ hội cho Việt Nam cơ cấu lại thị trường xuất khẩu, nhập khẩu

Không chỉ đầu tư, doanh nghiệp còn có quyền nhập khẩu nguyên phụ liệu, linh kiện tại các thị trường FTA để được tính tỷ lệ xuất xứ. Với mục tiêu khuyến khích thương mại giữa các thành viên tham gia FTA, hạn chế sự hưởng lợi từ các nước ngoài khu vực, nhiều mặt hàng đòi hỏi phải sử dụng toàn bộ hoặc một tỷ lệ nhất định nguyên phụ liệu sản xuất trong nước hoặc trong khu vực ký FTA mới được hưởng thuế ưu đãi. Quy tắc xuất xứ là thách thức cho xuất khẩu nhưng cũng bao hàm cơ hội khi tạo áp lực thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, giá trị gia tăng trong sản phẩm xuất khẩu.

Từ một nền sản xuất phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, chủ yếu là nhập khẩu từ Trung Quốc, nay nhiều ngành sản xuất nước ta như dệt may, da giày, chế biến gỗ, máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng, sắt thép và sản phẩm từ sắt thép, sản phẩm từ chất dẻo, cao su, dây điện và cáp điện… không những đã phần nào chủ động được nguồn nguyên liệu trong nước kết tinh trong sản phẩm dành cho xuất khẩu.

Có thể nói, với việc tiên phong mở rộng các thị trường FTA lên tới 60 nền kinh tế, chiếm 75% kim ngạch mậu dịch toàn cầu, các FTA mà Việt Nam đang thực thi đã bổ trợ cho nhau trong 2 chiều (chiều đi - xuất khẩu để hưởng ưu đãi thuế quan) và chiều về (nhập khẩu - đóng góp vào tỷ lệ xuất xứ) đã giúp Việt Nam chủ động phân tán rủi ro, thiết lập chuỗi cung mới, tạo sức ép buộc ngành công nghiệp hỗ trợ cho các ngành hướng về xuất khẩu phải đổi mới, phát triển.

Ngọc Châu