Hoàn thiện Chỉ thị, chỉ tiêu để tăng hiệu quả quản lý, bảo vệ môi trường

Bộ Chỉ thị môi trường (Chỉ thị môi trường) là công cụ quan trọng đối với việc quản lý bảo vệ môi trường của quốc gia và địa phương. Bên cạnh đó, Bộ Chỉ thị môi trường còn được dùng trong việc lập báo

Thực tiễn ban hành chỉ thị, chỉ tiêu môi trường ở nước ta

Hiện nay, Việt Nam có 4 hệ thống chỉ tiêu về môi trường, bao gồm: các chỉ tiêu môi trường trong Văn kiện Đại hội Đảng, chỉ tiêu môi trường do Quốc hội đặt ra, các chỉ tiêu thống kê môi trường do Chính phủ ban hành và Bộ Chỉ thị môi trường của Bộ TN&MT.

Năm 2005, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia, trong đó có nhóm chỉ tiêu về môi trường. Năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 43/2010/QĐ-TTg ban hành Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia mới, thay thế cho Hệ thống chỉ tiêu đã ban hành năm 2005. Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia năm 2010 đã được đổi mới, bổ sung và hoàn thiện theo hướng tăng cường hơn nữa các chỉ tiêu thống kê phản ánh chất lượng, hiệu quả của sự phát triển, sức cạnh tranh của nền kinh tế và quá trình CNH - HĐH đất nước và các chỉ tiêu bảo đảm an sinh xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Hệ thống chỉ tiêu này gồm 250 chỉ tiêu, chia thành 21 nhóm nội dung, trong đó, nhóm nội dung về “Bảo vệ môi trường” có 24 chỉ tiêu.

Trong số 24 chỉ tiêu về bảo vệ môi trường, có 13 chỉ tiêu được giao cho Bộ TN&MT chủ trì thực hiện; 7 chỉ tiêu được giao cho Bộ NN&PTNT, 3 chỉ tiêu do Bộ Xây dựng chủ trì thực hiện, 1 chỉ tiêu do Tổng cục Thống kê thực hiện. Ngoài ra, còn có các bộ, ngành khác tham gia phối hợp như Bộ Công Thương, Bộ Y tế, Bộ Tài chính…

Năm 2011, trên cơ sở Hệ thống chỉ tiêu thống kê đã ban hành, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Thông tư số 02/2011/TT-BKHĐT quy định nội dung Hệ thống chỉ tiêu thống kê môi trường quốc gia. Kèm theo đó, Thông tư cũng ban hành danh mục và nội dung Hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, trong đó có nhóm chỉ tiêu thống kê môi trường. Các chỉ tiêu này được giao cho các sở, ban ngành tại các địa phương chủ trì thực hiện.

Đối với việc ban hành chỉ thị về môi trường, từ năm 1996 đến nay, Cục Bảo vệ Môi trường nay là Tổng cục Môi trường đã tiến hành xây dựng các chỉ thị để đánh giá môi trường. Cục đã tiến hành nghiên cứu xây dựng Bộ chỉ tiêu môi trường ở Việt Nam trên cơ sở phương pháp luận của UNEP, EAP - AP. Đây được coi là bộ chỉ tiêu đầu tiên của Việt Nam bao gồm 16 vấn đề lớn, 20 vấn đề cụ thể và 80 chỉ thị. Năm 2009, Bộ TN&MT tiếp tục xây dựng và ban hành Thông tư quy định về xây dựng và quản lý các Chỉ thị môi trường quốc gia và Thông tư áp dụng đối với các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường ở trung ương và địa phương. Thông tư đã quy định nguyên tắc xây dựng Chỉ thị môi trường và các thông tin, dữ liệu cần có cho Chỉ thị môi trường. Năm 2012, Viện Nghiên cứu Quản lý Biển và Hải đảo, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam đã xây dựng Bộ Chỉ thị môi trường, Đây là một cơ sở quan trọng mang tính chiến lược góp phần quản lý và kiểm soát ô nhiễm khi khai thác kinh tế trên các vùng biển và hải đảo của Việt Nam.

Độ “vênh” giữa các bộ chỉ thị, chỉ tiêu môi trường

Thực tế triển khai thực hiện các tiêu chí môi trường cho thấy vẫn còn có khoảng cách giữa các hệ thống chỉ tiêu. Một số chỉ tiêu không rõ khái niệm hoặc tiêu chí đánh giá cụ thể, một số chỉ tiêu đưa ra không phù hợp với điều kiện thực tế, không có số liệu tổng hợp, không phân công rõ trách nhiệm cho các bộ, ngành…

Một số chỉ tiêu đặt mục tiêu quá cao so với hiện trạng thực tế. Điển hình như chỉ tiêu "Xây dựng hệ thống xử lý nước thải tại 100% số đô thị loại 3 trở lên, 50% số đô thị loại 4 và tất cả các khu công nghiệp, khu chế xuất". Trên thực tế, hiện nay mới chỉ có 60% khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung và 25% khu đô thị loại 3 trở lên đã và đang xây dựng hệ thống thoát nước, xử lý nước thải tập trung.

Tương tự, đối với chỉ tiêu "80 - 90% chất thải rắn, 100% chất thải y tế được thu gom và xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường". Thực tế, ở phần lớn các đô thị hiện nay, tỷ lệ thu gom chất thải rắn đô thị đạt khá cao (khoảng 75 - 90%) nhưng tỷ lệ chất thải rắn được xử lý hợp vệ sinh lại rất thấp (khoảng 50%).

Sự phân công về bảo vệ môi trường giữa các bộ, ngành không rõ ràng, đôi khi còn chồng chéo trong một số lĩnh vực, đơn cử việc theo dõi, đánh giá và quản lý chất thải rắn được giao cho 4 đơn vị quản lý là Bộ Xây dựng, Bộ Y tế, Bộ Công Thương và Bộ TN&MT; quản lý môi trường công nghiệp được giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công Thương, Bộ TN&MT... Điều này dẫn tới, các số liệu báo cáo phân tán, không thống nhất, thiếu đơn vị đầu mối quản lý tổng hợp..

Cần ban hành bộ chỉ thị, chỉ tiêu môi trường đầy đủ

Hiện Việt Nam mới chỉ tập trung xây dựng chỉ thị cấp quốc gia (phục vụ đánh giá phát triển bền vững). Riêng Bộ Chỉ thị môi trường nhằm phục vụ đánh giá hiện trạng ô nhiễm chung của cả nước vẫn còn thiếu. Đến nay, Việt Nam mới chỉ xây dựng chỉ số đánh giá chất lượng nước và chỉ số đánh giá không khí mà chưa có chỉ số đánh giá môi trường đất.

Vì vậy, đối với cấp tỉnh/thành phố do mục tiêu, nhiệm vụ khác nhau và giới hạn phạm vi cũng như độ bao phủ của nguồn dữ liệu nên cần lựa chọn việc xây dựng Bộ Chỉ thị môi trường phục vụ đánh giá hiện trạng môi trường. Đồng thời cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng chỉ thị đánh giá cụ thể cho môi trường đất, nước đối với cấp tỉnh/thành để giúp cho các nhà hoạch định chính sách có thông tin đánh giá tổng hợp hiện trạng môi trường của địa phương.

Quốc hội đã thông qua Luật Bảo vệ môi trường 1993, Luật Bảo vệ môi trường 2005 và mới đây là Luật Bảo vệ môi trường 2014, trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban hành các nghị định về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường; hoạt động kiểm tra, xác nhận việc chủ dự án thực hiện các nội dung của báo cáo và yêu cầu của quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; cam kết bảo vệ môi trường. Đây là một bước hoàn thiện cơ bản các quy định về quy hoạch bảo vệ môi trường, xây dựng các chỉ thị, chỉ tiêu về môi trường để tăng cường pháp chế trong phòng ngừa ô nhiễm, suy thoái môi trường đối với hoạt động đầu tư phát triển.