Khoản tiền thứ hai là 15,833.769.700 tỷ đồng được Seaprodex mang đầu tư vào Trung tâm chế biến Thuỷ sản tại Khu Công nghiệp Sóng Thần II, và hạch toán tăng vốn của Seaprodex được Thanh tra Nhà nước kiến nghị lên Bộ Thuỷ sản và Bộ Tài chính thống nhất việc xử lý để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định.
Ghi nhận của cơ quan thanh tra, số nợ mà Seaprodex đang mắc và khó có thể thanh toán lên đến 232,373 tỷ đồng.
Ông Nguyễn Đình Phương, nguyên Tổng Giám đốc Seaprodex lý giải về nguyên do nợ nần chồng chất là do phải gánh hộ nợ của những doanh nghiệp sáp nhập. Ông Phương biện giải: “Khi tiếp nhận 17 doanh nghiệp thành viên tại thời điểm giao vốn 1.1.1995, Seaprodex đã đề nghị xử lý các khoản nợ tổng cộng lên đến 137,991 tỷ đồng; trong đó phần công nợ phải thu khó đòi là 76,541 tỷ đồng, lỗ luỹ kế 26,938 tỷ đồng, nợ đến hạn nhưng không có khả năng trả là 24,600 tỷ đồng. Đến năm 1997, tiếp nhận thêm 11 doanh nghiệp thành viên, số nợ phải gánh từ các doanh nghiệp này tổng cộng lên tới 18,448 tỷ đồng; bao gồm 4,518 tỷ đồng công nợ phải thu khó đòi, lỗ luỹ kế 7,433 tỷ đồng, tài sản không cần dùng chờ thanh lý 96 triệu đồng và nợ đến hạn không có khả năng trả là 2,401 tỷ đồng”.
Về sử dụng tài sản đồng vốn ngân sách tiếp tục được ông Nguyễn Đình Phương biện giải rằng chỉ với 4 doanh nghiệp thuộc Seaprodex, gồm Công ty Nuôi trồng Thuỷ sản, Công ty Dịch vụ & Xuất nhập khẩu Seaprodex, Công ty Thuỷ sản khu vực II và Công ty Cung ứng Vật tư và Nuôi tôm xuất khẩu đã có số lỗ gần 140 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 90% trên tổng lỗ luỹ kế của Seaprodex.
Theo kết luận của Thanh tra Nhà nước, cá nhân ông Nguyễn Đình Phương khi là Giám đốc Công ty XNK Thuỷ sản Tp.HCM, phải chịu trách nhiệm về khoản phải thu khó đòi là 39,288 tỷ đồng, và khoản nợ phải trả phát sinh từ trước năm 1995 khoảng gần 32,37 tỷ đồng. Khi là Tổng giám đốc từ năm 1998 đến nay, ông Phương phải chịu trách nhiệm về việc điều động và sử dụng vốn ngân sách thu từ nguồn cổ phần hoá không đúng quy định với số tiền là 35,370 tỷ đồng. Ngoài ra, ông Phương liên đới trách nhiệm trong việc không thực hiện được mục tiêu của dự án đầu tư xây dựng Trung tâm Chế biến Thuỷ sản tại Khu Công nghiệp Sóng Thần II (Bình Dương)..
Đáng chú ý là ở dự án xây dựng Trung tâm Chế biến Thuỷ sản, trước khi quyết định dời về Bình Dương, dự án được triển khai tại Khu Công nghiệp Tân Tạo (Tp.HCM) và theo kết luận Thanh tra, giai đoạn này, về phía Bộ Thuỷ sản đã vấp sai phạm là phê duyệt kế hoạch đấu thầu trước khi phê duyệt thiết kế kỹ thuật của dự án; đồng thời ký quyết định phê duyệt khoan khảo sát thiết kế tại Khu Công nghiệp Tân Tạo, trong khi đơn vị này chưa cấp đất cho dự án…
Đề cập chi tiết về vấn đề này, ông Nguyễn Đình Phương cho rằng: “Nếu không nói tôi đã có công “ngăn chặn” những việc làm sai trái của những người khác thì thôi, chứ làm sao nói tôi có tội được. Năm 1999, để đẩy mạnh việc chế biến, lãnh đạo Bộ khuyến khích chúng tôi lập Trung tâm chế biến thuỷ sản.
Để xây dựng một Trung tâm chế biến thuỷ sản hiện đại thì tổng vốn đầu tư phải khoảng 120 tỷ đồng, nhưng Bộ đã “ép” xuống còn hơn 82 tỷ đồng, vì nếu hơn 120 tỷ đồng thì phải trình Thủ tướng quyết định. Sau đó, Bộ chỉ định Công ty Tư vấn Đầu tư và Thiết kế của Bộ thiết kế kỹ thuật và thiết kế thi công. Trong khi phần thiết kế, kỹ thuật của dự án chưa được phê duyệt thì chính Thứ trưởng Nguyễn Thị Hồng Minh đã ký quyết định phê duyệt kế hoạch đấu thầu. Và khi chưa được Khu công nghiệp Tân Tạo giao đất, chính bà Minh đã ký duyệt cho khoan khảo sát thiết kế… Do không làm đúng trình tự theo quy định, chọn đơn vị thiết kế không đủ năng lực, nên bản vẽ thiết kế kỹ thuật đã quá cẩu thả, không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật và vệ sinh về an toàn thực phẩm.
Chúng tôi nhờ Trung tâm Kiểm tra chất lượng và vệ sinh thuỷ sản thẩm định giúp họ khẳng định thiết kế của Công ty Tư vấn Đầu tư và Thiết kế lập là “lãng phí về diện tích, chưa phù hợp với công nghệ và chưa đảm bảo an toàn vệ sinh”. Số tiền đã thực chi cho Công ty này là 224 triệu đồng, giảm so với giá trị dự toán ban đầu mà ông Đặng Nguyên Dũng ký với Công ty Tư vấn Đầu tư và Thiết kế là 251 triệu đồng. Cũng với ông Đặng Nguyên Dũng còn ký hợp đồng thuê khảo sát, điều tra thu thập số liệu địa chất tại Khu Công nghiệp Tân Tạo với giá tạm tính là hơn 103 triệu đồng. Thực chi lúc nghiệm thu là 100,466.650 triệu đồng. Sau đó, ông Đặng Nguyên Dũng tiếp tục ký hợp đồng với Công ty Tư vấn Đầu tư và Thiết kế, về việc điều chỉnh Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án Trung tâm Chế biến Thuỷ sản. Lý do: thay đổi địa điểm từ Khu Công nghiệp Tân Tạo về Khu Công nghiệp Sóng Thần II. Số tiền phải chi cho hợp đồng này là hơn 106,081.662 triệu đồng.
Theo kết luận của Thanh tra Nhà nước, tính đến thời điểm 31.12.2001, riêng phần vốn Nhà nước giao cho doanh nghiệp đã bị mất là 150,004 tỷ đồng và 3.864.269 USD. Hiện nay Seaprodex đứng trước nguy cơ mất vốn thêm 136,883 tỷ đồng do nợ phải thu khó đòi và hàng hoá mất phẩm chất.
Trưởng Đoàn Thanh tra Nhà nước về Seaprodex – ông Hoàng Đức Ngân, cho biết, ngoài nguyên nhân “gánh nợ” như cựu Tổng giám đốc Seaprodex Nguyễn Đình Phương viện dẫn như một cứu cánh, còn có 3 nguyên nhân khác rất đáng để nhiều tổng công ty cùng quan tâm.
Thứ nhất, tại một số doanh nghiệp, cán bộ có trách nhiệm trực tiếp trong việc gây tổn thất về kinh tế cho đơn vị, không được làm rõ trách nhiệm và xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật, lại “hạ cánh” bằng chuyện nghỉ hưu; hoặc điều động đến đơn vị khác. Họ không bàn giao, hoặc bàn giao không đầy đủ hồ sơ, sổ sách cùng những vấn đề có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, làm cho các đơn vị này vốn đã khó khăn, không tự tháo gỡ được lại càng khó khăn hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Song song đó là chuyện giữa đội ngũ lãnh đạo chủ chốt của cấp tổng công ty, như Chủ tịch Hội đồng quản trị với Tổng giám đốc; giữa Tổng giám đốc với các Phó tổng giám đốc thiếu đoàn kết, ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả điều hành sản xuất kinh doanh của không những cấp trung ương là tổng công ty, mà còn đến các đơn vị thành viên.
Hệ luỵ từ chuyện thiếu đoàn kết nội bộ là giám đốc một số đơn vị thành viên quyết định phương án kinh doanh, đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản có giá trị lớn hoặc lựa chọn đối tác làm ăn thiếu thận trọng, không phù hợp với năng lực kinh tế của mình, xây dựng phương án khoán doanh thu không chặt chẽ.. thì lại thiếu bàn tay chỉ đạo, giúp đỡ một cách có hiệu quả từ tổng công ty lẫn cấp bộ chuyên trách. Chính điều này dẫn đến phát sinh nợ khó đòi có khả năng mất vốn, nợ phải trả nhưng lại không có khả năng thanh toán.. Tất cả đều dễ dàng đưa con tàu doanh nghiệp đến con đường thua lỗ kéo dài rồi đi đến phá sản!.
Âu đó cũng là bài học cho nhiều DNNN đang hoạt động trong cơ chế thị trường hiện nay./.