Thách thức đối với sự phục hồi và phát triển kinh tế khu vực

Báo cáo “Cập nhật Tình hình Kinh tế Đông Á và Thái Bình Dương: Đương đầu Bão tố” do Ngân hàng Thế giới (WB) công bố mới đây đánh giá, tiến trình phục hồi kinh tế tại các quốc gia đang phát triển khu vực Đông Á - Thái Bình Dương bị tác động bởi cuộc khủng hoảng Ukraina; các nền kinh tế vẫn gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 kéo dài, chính sách thắt chặt tài chính của Hoa Kỳ, dịch COVID-19 tái bùng phát và chính sách “Zero-COVID” tại Trung Quốc.

Cuộc xung đột Nga - Ukraine kéo theo các biện pháp trừng phạt đối với Nga đang làm gián đoạn nguồn cung hàng hóa, gia tăng căng thẳng tài chính và giảm triển vọng tăng trưởng toàn cầu. Đặc biệt là đối với những quốc gia nhập khẩu nhiều nhiên liệu quan trọng trong khu vực như Mông Cổ, Thái Lan, những quốc gia nhập khẩu lương thực nhiều như các quốc đảo Thái Bình Dương, hay những quốc gia xuất khẩu lớn như Malaysia, Việt Nam...

Trong khi các nền kinh tế Đông Á và Thái Bình Dương vừa bắt đầu phục hồi sau cú sốc do đại dịch gây ra thì cuộc khủng hoảng Ukraine lại tạo thêm áp lực cho đà tăng trưởng”, bà Manuela V. Ferro, Phó Chủ tịch WB phụ trách khu vực Đông Á và Thái Bình Dương nhận định.

Lạm phát tại Hoa Kỳ bùng lên do hồi phục kinh tế sau gói kích cầu và gián đoạn chuỗi cung ứng kéo dài có thể khiến cho chính sách thắt chặt tài chính diễn ra nhanh hơn dự kiến, có lẽ về thời điểm thì phù hợp với Hoa Kỳ nhưng lại quá sớm với các quốc gia Đông Á - Thái Bình Dương chưa hồi phục hoàn toàn.

Tại Trung Quốc, sự chững lại mang tính cơ cấu của tăng trưởng kinh tế, việc hạ thấp tỷ lệ đòn bẩy trong lĩnh vực bất động sản, và COVID-19 bùng phát trong bối cảnh chính sách “Zero-COVID” có thể làm giảm xuất khẩu của các quốc gia trong khu vực.

Những tác động đồng thời của những yếu tố này sẽ làm giảm triển vọng tăng trưởng ở hầu hết các nước trong khu vực Đông Á - Thái Bình Dương. Vì vậy, trong Báo cáo cập nhật tháng 4/2022, WB dự báo tăng trưởng khu vực năm 2022 ở mức 5% - giảm 0,4 điểm phần trăm so với dự báo hồi tháng 10/2021. Theo kịch bản xấu, nếu tình hình toàn cầu trở nên xấu hơn và phản ứng chính sách tại mỗi quốc gia không đủ mạnh thì tăng trưởng của khu vực trong năm nay có thể giảm còn 4%. WB cũng hạ dự báo tăng trưởng năm 2022 của hầu hết các nền kinh tế trong khu vực.

Dự báo mới nhất của WB về tăng trưởng kinh tế một số nước khu vực Đông Á - Thái Bình Dương trong năm 2022

Những cơ hội tăng trưởng mới

Tuy nhiên, theo WB, đối trọng với những “cú sốc” trên là một số cơ hội tăng trưởng mới.

Một là, chuyển dịch trong bối cảnh thương mại quốc tế đang tạo ra những ngách hàng xuất khẩu mới trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo ở những quốc gia Đông Á – Thái Bình Dương khác do một số hoạt động sản xuất đang rời khỏi Trung Quốc.

Động lực đa dạng hóa sản xuất và xuất khẩu, vốn đã mạnh mẽ do quan điểm sợ phụ thuộc giai đoạn sau COVID-19, sẽ được khuếch đại bởi khủng hoảng Ucraina và những biện pháp trừng phạt hiện nay. Động lực di dời cơ sở sản xuất được đẩy mạnh hơn do tăng lương ở Trung Quốc nhờ tăng trưởng và thay đổi nhân khẩu học, cũng như căng thẳng thương mại Mỹ - Trung.

Tỷ trọng của các quốc gia Đông Á-Thái Bình Dương ngoài Trung Quốc trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa cuối cùng của Hoa Kỳ đã tăng từ 10% vào đầu năm 2018 lên mức 14% vào giữa năm 2021 (trước cú sốc liên quan đến biến chủng Delta), trong khi tỷ trọng của Trung Quốc giảm trong cùng kỳ từ 33% xuống còn 25%.

Tuy nhiên, tiềm năng tự động hóa tăng lên sẽ thu hẹp cơ hội cho các quốc gia khác tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu thông qua chuyên môn hóa vào các lĩnh vực thâm dụng lao động. Mức độ hưởng lợi của từng quốc gia khi các chuỗi giá trị được định hình lại còn phụ thuộc vào chi phí sản xuất và thương mại của họ. Tuy nhiên, lợi thế lao động giá rẻ ở các quốc gia Đông Á-Thái Bình Dương đang bị ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau bởi năng suất lao động thấp.

Hai là, công nghệ - yếu tố chính quyết định năng suất và cú sốc COVID-19 đã, đang đẩy nhanh quá trình lan tỏa công nghệ số. Sự lan tỏa công nghệ số có thể nâng cao năng suất, không chỉ ở một số ít các quốc gia và doanh nghiệp tiên phong, mà còn ở nhiều quốc gia và doanh nghiệp có hiệu suất thấp hơn.

Lan tỏa công nghệ do đại dịch cũng đang làm thay đổi cơ cấu ngành thương mại dịch vụ, đặc biệt là sự phát triển của thương mại các ngành dịch vụ thâm dụng dữ liệu. Những khoản đầu tư vào giao nhận số hóa (digital delivery) của doanh nghiệp và người tiêu dùng trong giai đoạn đại dịch đang làm giảm chi phí thương mại quốc tế tương quan với các giao dịch trong nước. Kết quả là cơ hội về thương mại dịch vụ số sẽ tăng lên.

Ba là, giá cả nhiên liệu hóa thạch cao có thể làm tăng động lực chuyển đổi sang năng lượng tái tạo. Việc áp dụng các công nghệ sản xuất xanh sẽ cho phép các quốc gia Đông Á-Thái Bình Dương cắt giảm phát thải các-bon, ứng phó với nguy cơ mất an ninh năng lượng mới mà không phải cắt giảm tiêu dùng và tăng trưởng quá nóng.

Tuy nhiên không phải tất cả những thay đổi hiện nay đều thuận lợi với công nghệ xanh. Giá năng lượng cao cũng có thể dẫn đến tăng đầu tư vào sản xuất năng lượng hóa thạch. Đồng thời, khủng hoảng ở Ucraina có thể làm giảm nguồn cung đầu vào quan trọng cho sản xuất hàng hóa xanh như pladium và niken.

Một số khuyến nghị chính sách

Để giảm thiểu rủi ro và nắm bắt cơ hội, WB khuyến nghị các quốc gia nên tập trung triển khai một số chính sách.

Thứ nhất, nâng cao hiệu suất chính sách tài khóa cho phục hồi và tăng trưởng. Hỗ trợ có mục tiêu và hiệu suất cao hơn cho các hộ gia đình và doanh nghiệp sẽ hạn chế ảnh hưởng của các cú sốc cộng dồn, tạo dư địa để đầu tư cơ sở hạ tầng thương mại, năng lượng và lan tỏa công nghệ. Đồng thời thực hiện hiệu quả những quy tắc tài khóa và cải cách về thu - chi ngân sách Nhà nước.

Thứ hai, tăng cường các chính sách an toàn vĩ mô nhằm giảm nhẹ rủi ro từ sự thắt chặt tài chính toàn cầu. Chính sách tiền tệ sẽ giúp xác định những nguy cơ dễ tổn thương có thể xuất hiện, đồng thời vẫn cần cảnh giác với những áp lực lạm phát mới. Việc chẩn đoán sức chịu đựng của các tổ chức tài chính cần được thực hiện song song với các biện pháp nhằm tăng vốn hóa ngân hàng, phòng ngừa rủi ro, nâng cao dự trữ thanh khoản.

Thứ ba, cải cách các chính sách thương mại đối với hàng hóa nhằm tận dụng xu hướng dịch chuyển trong bối cảnh mới của thương mại toàn cầu. Bên cạnh đó, tạo thuận lợi cho dịch chuyển lao động, khởi sự doanh nghiệp, gia nhập thị trường... sẽ cho phép tái phân bổ nguồn lực nhằm ứng phó với những cú sốc toàn cầu. Thực hiện hiệu quả các hiệp định thương mại một cách có chiều sâu cũng là chất xúc tác thúc đẩy cải cách trong nước và đảm bảo tiếp cận các thị trường nước ngoài.

Thứ tư, cải cách chính sách và hỗ trợ khuyến khích ứng dụng, lan tỏa công nghệ số, công nghệ xanh. Gia tăng cạnh tranh trong nước và quốc tế có thể tăng động lực áp dụng công nghệ nhằm nâng cao năng suất. Nâng cao kỹ năng quản trị, cũng như cải thiện khả năng tiếp cận nguồn tài chính và cơ sở hạ tầng công nghệ số sẽ tăng cường năng lực áp dụng công nghệ của các doanh nghiệp.