Chuyên gia Nhật Bản: Thịt lợn bản địa Việt Nam có nhiều ưu điểm để phát triển thương hiệu

Theo đánh giá của các chuyên gia Nhật Bản, Việt Nam có rất nhiều tiềm năng tài nguyên để xây dựng thương hiệu lợn bản địa, tuy nhiên vẫn chưa khai thác triệt để cơ hội.

Thông tin từ Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản tại Việt Nam (JICA), sáng 3/3, Hội nghị tổng kết của Dự án SATREPS “Thành lập hệ thống ngân hàng gien đông lạnh cho các giống lợn bản địa Việt Nam và phát triển hệ thống chăn nuôi bền vững để bảo vệ đa dạng sinh học” đã được tổ chức tại Hà Nội.

Đại diện các Bộ, cơ quan Chính phủ Việt Nam, các tổ chức quốc tế hoạt động trong lĩnh vực chăn nuôi, bảo tồn, hỗ trợ sinh sản và thú y, cũng như các đối tác Việt Nam và Nhật Bản của Dự án đã tham dự Hội nghị để chia sẻ kinh nghiệm và kết quả của Dự án.

Hội nghị tổng kết Dự án SATREPS “Thành lập hệ thống ngân hàng gien đông lạnh cho các giống lợn bản địa Việt Nam và phát triển hệ thống chăn nuôi bền vững để bảo vệ đa dạng sinh học”
Hội nghị tổng kết Dự án SATREPS “Thành lập hệ thống ngân hàng gien đông lạnh cho các giống lợn bản địa Việt Nam và phát triển hệ thống chăn nuôi bền vững để bảo vệ đa dạng sinh học”

Tại Hội nghị, Báo cáo tóm tắt tổng kết nêu bật những thành tựu của Dự án, cũng như tác động của Dự án đối với chăn nuôi và bảo tồn lợn bản địa ở tỉnh Hòa Bình đã được trình bày. Sau khi Dự án kết thúc vào tháng 5/2020, đối tác phía Việt Nam của Dự án cam kết tiếp tục các sáng kiến do Dự án khởi xướng để bảo tồn và sử dụng các nguồn tài nguyên lợn bản địa quan trọng của Việt Nam.

Dự án bắt đầu vào tháng 5/2015 này đã thực hiện khảo sát lợn bản địa Việt Nam tại 22 tỉnh và thiết lập cơ sở dữ liệu gồm các nhận dạng, phân loại, đặc tính. Dự án đã thực hiện bảo quản lạnh tinh trùng của các giống được chọn và thiết lập một hệ thống ngân hàng tinh trùng đông lạnh.

Dự án cũng thực hiện nhiều nghiên cứu để sản xuất phôi trong ống nghiệm, đông lạnh tế bào trứng và phôi bằng phương pháp thủy tinh hóa, chuyển nhân tế bào soma, và cấy chuyển phôi và hợp tử.

Các công nghệ cơ bản để phòng ngừa và kiểm soát các bệnh truyền nhiễm, cải thiện việc nuôi và quản lý chăn nuôi đã được phổ biến cho người chăn nuôi lợn bản địa ở tỉnh Hòa Bình nhằm tăng năng suất lợn bản địa.

Giáo sư Kazuhiro KIKUCHI - Cố vấn trưởng Dự án SATREPS
Giáo sư Kazuhiro KIKUCHI - Cố vấn trưởng Dự án SATREPS cho rằng Việt Nam có nguồn tài nguyên lợn bản địa phong phú nhưng chưa được khai thác triệt để

Theo Giáo sư Kazuhiro KIKUCHI - Cố vấn trưởng Dự án, Việt Nam có rất nhiều nguồn tài nguyên lợn bản địa đa dạng và phong phú, nhưng lại chưa được khai thác triệt để.

Lợn bản địa Việt Nam chịu được điều kiện chăn nuôi kém (vì chúng có thể sống bằng thức ăn sống) nhưng thịt thì lại rất ngon.

“Điều này rất quan trọng về mặt thực phẩm, vì nó làm tăng cơ hội xây dựng thương hiệu thịt lợn bản địa”, Giáo sư cho biết.

Đồng thời, nhiều giống lợn bản địa của Việt Nam có kích thước nhỏ (lợn nhỏ, trọng lượng chỉ 40-50kg), có nghĩa là chúng có thể được dùng phục vụ mục đích y học - điều này có thể tạo ra nhu cầu tiềm năng và cơ hội thương mại trong tương lai.

Việt Nam hiện có khoảng 26 giống lợn bản địa. Gần đây, một số giống này đã bị giảm mạnh về số lượng và bị lai với các giống khác dẫn đến tình trạng một số giống bản địa gần như hoặc đã tuyệt chủng.

Do đó, việc bảo tồn các giống lợn bản địa là một nhiệm vụ cấp bách trên quan điểm đa dạng sinh học, và là một trong những ưu tiên của Chính phủ Việt Nam. Phát triển các biện pháp bền vững để cải thiện sinh kế của hộ chăn nuôi quy mô nhỏ cũng là một ưu tiên quan trọng không kém.

Giống lợn bản địa tại Mai Châu, Hòa Bình
Giống lợn bản địa tại Mai Châu, Hòa Bình

Trả lời báo chí về ảnh hưởng của dịch tả lợn châu Phi bùng phát từ cuối năm 2019, Giáo sư Kazuhiro KIKUCHI cho biết sự lây lan của dịch bệnh này đã gây nhiều mối đe dọa trong việc thực hiện Dự án, nhưng các biện pháp kiểm soát đã được thực hiện chặt chẽ và thành công.

“Chúng tôi đã cố gắng thực hiện các biện pháp phòng ngừa để đối phó với tình hình dịch bệnh, phải mất nhiều nỗ lực và thời gian hơn. Một số hoạt động theo kế hoạch đã phải hủy bỏ.

Tuy nhiên, các hoạt động chăn nuôi tại Trung tâm Nghiên Cứu và phát triển chăn nuôi miền núi Thái Nguyên không bị ảnh hưởng do có các biện pháp phòng ngừa và kiểm soát, và điều này đã cho chúng tôi niềm tin rằng có thể ngăn chặn được dịch tả lợn châu Phi nếu thực hiện các biện pháp kịp thời và hiệu quả”, Giáo sư Kazuhiro KIKUCHI chia sẻ, đồng thời cho biết sự lây lan dịch bệnh này cũng cho thấy tầm quan trọng của bảo tồn nguồn gien, vì một khi nguồn gien bị mất đi do các bệnh truyền nhiễm nghiêm trọng, không có cách nào phục hồi được.

 

Thy Thảo