TÓM TẮT:

Tính chất phức tạp của thị trường chứng khoán (TTCK) ẩn chứa nhiều yếu tố rủi ro, đặc biệt là thị trường chứng khoán ở Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển, nên việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hoạt động trên TTCK để phát triển bền vững TTCK Việt Nam là điều đặc biêt quan trọng. Bài viết tập trung đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để phát triển bền vững TTCK Việt Nam.

Từ khóa: chất lượng nguồn nhân lực, thị trường chứng khoán, Việt Nam.

1. Đặt vấn đề

Nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đóng vai trò quan trọng, có tính quyết định đến phát triển TTCK theo hướng bền vững. Thực tế cho thấy, ở các quốc gia có TTCK phát triển đều có nguồn nhân lực chứng khoán chất lượng cao. Nói cách khác, trình độ phát triển của TTCK luôn gắn liền với chất lượng nguồn nhân lực của lĩnh vực chứng khoán.

TTCK Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển rất mạnh, thể hiện ở quy mô thị trường ngày càng gia tăng, cấu trúc thị trường có sự chuyển dịch tích cực, số lượng hàng hóa trên TTCK ngày càng nhiều, cơ sở nhà đầu tư trên thị trường, các tổ chức trung gian trên thị trường ngày càng tăng, dự báo nhu cầu về nguồn nhân lực cho lĩnh vực này sẽ gia tăng trong thời gian tới. TTCK Việt Nam được đánh giá là một điểm sáng, thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài trong những năm gần đây. Là một ngành kinh tế đầy tiềm năng, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, nhưng nguồn nhân lực trong lĩnh vực chứng khoán lại đang thiếu hụt trầm trọng, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.

Do vậy, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của TTCK Việt Nam là yêu cầu cấp thiết, đồng thời giúp thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các TTCK khu vực, hướng tới hội nhập thị trường vốn ASEAN.

2. Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực ngành chứng khoán Việt Nam

Nguồn nhân lực ngành chứng khoán được Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) chia thành 3 nhóm đối tượng chính sau:

(1) Nhân lực là cán bộ của cơ quan quản lý, giám sát và tổ chức hoạt động của TTCK (Bộ Tài chính, UBCKNN, các sở giao dịch chứng khoán, trung tâm lưu ký chứng khoán) trực tiếp thực hiện công tác xây dựng chính sách và khung pháp lý, quản lý, giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với các đối tượng tham gia đầu tư kinh doanh, cung cấp dịch vụ trên TTCK, nguồn nhân lực vận hành hệ thống giao dịch và bù trừ thanh toán trên TTCK.

(2) Nhóm người hành nghề kinh doanh chứng khoán, bao gồm: người làm việc tại các tổ chức kinh doanh và cung cấp dịch vụ về chứng khoán, người đã được cấp chứng chỉ hành nghề chứng khoán. Nguồn nhân lực tại các tổ chức phụ trợ trên TTCK như các hiệp hội. Người hành nghề tiềm năng trong tương lai.

(3) Nhóm nhà đầu tư trên TTCK bao gồm cả nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài hiện đang tham gia đầu tư trên TTCK Việt Nam.

Xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng của chất lượng nguồn nhân lực trong phát triển TTCK nên trong thời gian qua các cơ quan quản lý nhà nước về TTCK đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hoạt động trên TTCK. Nhờ vậy, chất lượng nguồn nhân lực ngành chứng khoán đã có sự thay đổi rất tích cực, đáp ứng yêu cầu phát triển của TTCK, cụ thể là: Đội ngũ công chức, viên chức UBCK/ngành đã đảm bảo được trình độ và năng lực để giúp UBCK hoàn thành nhiệm vụ được Chính phủ, Bộ Tài chính giao trong công tác phát triển, quản lý giám sát TTCK; Được trang bị kiến thức cập nhật, kinh nghiệm từ các thị trường phát triển để theo kịp sự phát triển của thị trường cả về chiều rộng (đối tượng quản lý, quy mô thị trường, khối lượng giao dịch, các loại sản phẩm và dịch vụ chứng khoán) và chiều sâu (mức độ phức tạp, tinh vi và tiềm ẩn các rủi ro, biến động khó lường của thị trường); Đảm bảo điều kiện năng lực công tác khi hội nhập với thị trường quốc tế. Nhìn chung, đội ngũ nhân lực làm công tác quản lý, giám sát, tổ chức hoạt động TTCK có chất lượng về chuyên môn, trình độ nghiệp vụ, cũng như đạo đức nghề nghiệp.

Thời gian qua, UBCKNN cũng đã tập trung đào tạo chuyên môn về chứng khoán và TTCK cho người hành nghề và công chúng đầu tư cũng như đào tạo về quản trị công ty dành cho các công ty đại chúng; cung cấp cho TTCK Việt Nam đội ngũ nhân lực có chất lượng về chuyên môn, trình độ nghiệp vụ. Số lượng, năng lực hoạt động, tính chuyên nghiệp của đội ngũ những người hành nghề chứng khoán ngày càng được nâng cao. Tính đến ngày 31/12/2020 đã có 1.972 người được cấp chứng chỉ hành nghề quản lý quỹ, trong đó có 426 nhân viên đang làm việc tài Công ty quản lý quỹ… Giai đoạn 2012-2020, UBCKNN đã cấp trên 10 nghìn chứng chỉ hành nghề (môi giới, phân tích tài chính, quản lý quỹ). Ngoài ra, từ năm 2016 đến nay, UBCKNN đã cấp trên 2.100 chứng chỉ chuyên môn Chứng khoán phái sinh (CKPS) và TTCK phái sinh (. Riêng trong công tác đào tạo quản trị công ty đại chúng trong giai đoạn 2012 - 2020, UBCKNN đã tổ chức 62 lớp với 2.781 học viên tham dự [1]… nhờ vậy đã tạo ra một đội ngũ quản lý, hành nghề chứng khoán phái sinh để phục vụ cho việc tổ chức và vận hành thị trường phái sinh thời gian qua. Kết quả này đã góp phần đáp ứng kịp thời cho các tổ chức kinh doanh chứng khoán trong việc triển khai các nghiệp vụ kinh doanh theo đúng quy định hiện hành.

Không chỉ trình độ, nghiệp vụ của nguồn nhân lực ngành Chứng khoán được nâng lên mà kỹ năng nghề nghiệp cũng như sự thích ứng, nhanh nhạy với những biến động TTCK của đội ngũ nhân lực cũng được nâng lên, đặc biệt là ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức của đội ngũ quản lý, giám sát, tổ chức TTCK ngày càng được nâng cao… đã góp phần không nhỏ cho sự phát triển lành mạnh của TTCK thời gian qua. Đội ngũ công chức, viên chức của ngành chứng khoán đã đảm bảo được trình độ và năng lực để giúp UBCKNN hoàn thành nhiệm vụ được giao trong công tác phát triển, quản lý giám sát TTCK.

Từ khi hình thành đến nay, TTCK Việt Nam đã hoạt động an toàn, ổn định, trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn, thu được nhiều kết quả tốt. Một trong những yếu tố dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của ngành Chứng khoán Việt Nam chính là nguồn nhân lực hoạt động trên TTCK.

Bên cạnh những kết quả đạt được, chất lượng nguồn nhân lực ngành Chứng khoán cũng còn những hạn chếcụ thể như sau:

Một là, đội ngũ cán bộ cho công tác quản lý, giám sát, thanh tra hoạt động chứng khoán được chú trọng phát triển. Tuy nhiên, số lượng còn mỏng, chất lượng chưa đồng đều, đôi khi trình độ quản lý, giám sát của đội ngũ quản lý còn chưa đáp ứng kịp so với quy mô phát triển của TTCK.

Hai là, năng lực, trình độ, nghiệp vụ của những người tham gia TTCK còn hạn chế, nhất là năng lực phân tích, dự báo còn yếu. Đội ngũ nhân sự có trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao về quản lý tài sản chưa nhiều, chỉ tập trung chủ yếu vào một số công ty lớn.  

Ba là, kỹ năng nghề nghiệp của đội ngũ nhân lực quản lý cũng như người tham gia TTCK chưa đáp ứng được yêu cầu.

Bốn là, phẩm chất, đạo đức của một bộ phận đội ngũ quản lý, giám sát, người tham gia TTCK, cũng như nhà đầu tư còn hạn chế đã ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển TTCK. Tính tuân thủ pháp luật của nhà đầu tư tổ chức, nhà đầu tư cá nhân chưa cao.

3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Chứng khoán

Xuất phát từ nhũng hạn chế trên, cần có những giải pháp đồng bộ, hiệu quả để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Chứng khoán, đáp ứng yêu cầu phát triển TTCK trong bối cảnh mới, theo đó cần tập trung vào các giải pháp sau:

Một là, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nhân lực ngành Chứng khoán. Theo đó trước hết cần phân định rõ từng đối tượng để xác lập nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo cho phù hợp. Cụ thể:

Đối với đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, giám sát, thanh tra, tổ chức thị trường cần đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với vị trí việc làm, và trên nền tảng kiến thức, chuyên môn theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng công chức trên cơ sở chuyển đổi vị trí công tác thường xuyên để đội ngũ công chức có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ tổng hợp và toàn diện. Đào tạo và nâng cao năng lực cho cán bộ liên quan đến công tác giải quyết tranh chấp đầu tư, các thủ tục tranh tụng, tố tụng quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ tài chính. Tăng cường chuyên môn, kiến thức cho cán bộ trong các lĩnh vực khác nhau của thị trường, đảm bảo được các yêu cầu trong nước và quốc tế và xu hướng toàn cầu trên các thị trường vốn quốc tế. Đa dạng hóa các hình thức đào tạo, bồi dưỡng, trong đó có ứng dụng CNTT phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, xã hội trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0,…

Đối với đào tạo và nâng cao chất lượng người hành nghề chứng khoán. Trước hết cần rà soát, cập nhật chương trình đào tạo người hành nghề chứng khoán theo hướng hài hòa với các nước trong khu vực ASEAN và trên thế giới. Đa dạng nội dung, chương trình và các hình thức đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu của các dối tượng và tăng cường chuyển đổi số trong hoạt động đào tạo; Cần xây dựng và triển khai các chương trình cập nhật kiến thức thường xuyên cho người hành nghề chứng khoán nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Xây dựng nội dung đào tạo người hành nghề chứng khoán theo hướng tập trung đào tạo kiến thức, các kỹ năng, đào tạo thực hành qua các công cụ hỗ trợ hiện đại về các loại sản phẩm và dịch vụ mà các tổ chức kinh doanh chứng khoán cung cấp cho nhà đầu tư.

Cần cập nhật kiến thức về các sản phẩm mới, hệ thống giao dịch trên thị trường cũng như cập nhật các quy định pháp lý về chứng khoán và TTCK theo quy định của pháp luật thông qua các khóa tập huấn hàng năm; xây dựng bộ khung chương trình đào tạo chuẩn của Việt Nam về chứng khoán và TTCK, hướng đến hài hòa với chuẩn mực chung về chứng chỉ hành nghề chứng khoán của TTCK các nước trong khu vực và trên thế giới; Tăng cường số lượng, chất lượng giảng viên kiêm chức, thỉnh giảng tham gia giảng dạy các chương trình đào tạo; tăng cường đội ngũ các chuyên gia quốc tế, chuyên gia của các tập đoàn kinh tế lớn, thành viên thị trường có uy tín tham gia giảng dạy các chương trình đào tạo cho người hành nghề...

Đối với nhà đầu tư cần tiếp tục phát triển các nhà đầu tư cá nhân gắn với đào tạo, phổ cập kiến thức và thông tin tuyên tuyền. Xây dựng chiến lược đào tạo nhà đầu tư phù hợp với sự phát triển của TTCK. Cần xác định đào tạo nhà đầu tư là giải pháp đặc biệt quan trọng để nâng cao sự bảo vệ nhà đầu tư, thúc đẩy sự tự tin của nhà đầu tư khi tham gia thị trường, hình thành cơ sở nhà đầu tư có chất lượng.        

Hai là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế song phương, đa phương về đào tạo, tích cực và chủ động tham gia hội nhập, liên kết với các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu khoa học; đồng thời kết nối, tạo mạng lưới thu hút các nhà khoa học, các chuyên gia trong và ngoài nước trong nhiều lĩnh vực liên quan đến phát triển thị trường vốn để tham gia hoạt động đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành chứng khoán,

Ba là, xây dựng khung năng lực cho đội ngũ tham gia thị trường chứng khoán. Khung năng lực cần xác định yêu cầu năng lực tối thiểu - bao gồm cả kiến thức chuyên môn lẫn kỹ năng làm việc cho các vị trí hành nghề và nghiệp vụ cụ thể tại tổ chức kinh doanh chứng khoán. Khung năng lực có thể được sử dụng làm căn cứ để cập nhật, hoàn thiện các chương trình đào tạo hiện có cũng như xây dựng, bổ sung các chương trình đào tạo mới nhằm củng cố, nâng cao chất lượng nhân lực hành nghề trên TTCK. Về dài hạn, khung năng lực là công cụ để chuẩn hóa và nâng cao chuẩn mực người hành nghề chứng khoán trong nước theo hướng phù hợp với các nước trong khu vực, tiến tới công nhận lẫn nhau về chứng chỉ hành nghề và người hành nghề trên thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó, cũng cần xây dựng dựng khung năng lực cho cán bộ quản lý, giám sát, thanh tra, tổ chức chức TTCK. Khung năng lực cần phải cụ thể, phù hợp.

Bốn là, xây dựng chế độ, chính sách đãi ngộ phù hợp đối với đội ngũ cán bộ, công chức thực thi chức năng quản lý nhà nước đối với TTCK. Cần phải có chế độ về tiền lương, phúc lợi ở mức hợp lý so với mặt bằng thu nhập chung của người lao động trong lĩnh vực tài chính, chứng khoán.

Năm là, hoàn thiện công tác quản lý, đánh giá cán bộ, công chức thực hiện chức năng quản lý nhà nước về TTCK. Tăng cường công tác quản lý, giám sát cán bộ, công chức để tránh những hành vi vi phạm pháp luật, bóp méo hoạt động của TTCK. Hoàn thiện quy chế, hệ thống đánh giá, xếp loại công chức một cách hiệu quả, phù hợp nhằm động viên, thúc đẩy phát triển đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện công tác quản lý, giám sát, tổ chức hoạt động TTCK.

Sáu là, phát huy vai trò của các hiệp hội nghề nghiệp trong nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Chứng khoán. Các cơ quan chức năng, nhất là UBCKNN cần phối hợp với các hiệp hội nghề nghiệp trong quản lý, giám sát đối với người hành nghề chứng khoán, đặc biệt là gắn kết với các hiệp hội nghề nghiệp trong công tác đào tạo, bồi dưỡng người hành nghề chứng khoán. 

4. Kết luận

TTCKViệt Nam ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Để phát triển TTCK một cách bền vững, nhất thiết phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, kể cả nguồn nhân lực quản lý TTCK, nguồn nhân lực hành nghề chứng khoán và nguồn nhân lực là các nhà đầu tư chứng khoán. Để nâng cao được chất lượng nguồn nhân lực ngành Chứng khoán, cần phải thực hiện đồng bộ các biện pháp đã đề xuất. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Ủy ban Chứng khoán nhà nước (2020), Báo cáo tổng kết các năm từ năm 2016 đến năm 2020.
  2. Bộ Tài chính (2021), Báo cáo tổng kết thi hành Luật Chứng khoán.
  3. Bộ Tài chính (2021), Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2011-2020.
  4. Quốc hội (2006), Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11.
  5. . Quốc hội (2010), Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán số 62/2010/QH12.

Solutions to improve the quality of human resources for the sustainable growth of Vietnam’s stock market

Master. Pham Bao Anh

State Securities Commission of Vietnam

Abstract:

The complex nature of the stock market, especially developing stock markets like Vietnam’s stock market, contains many risks. It is important to improve the quality of human resources for the stock market operations to support the sustainable development of Vietnam’s stock market. This paper proposes some solutions to improve the quality of human resources for the sustainable growth of Vietnam’s stock market.

Keywords: human resources quality, stock market, Vietnam.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 16, tháng 6  năm 2022]