Giảm thiểu ảnh hưởng của tăng giá nguyên liệu thế giới lên thị trường trong nước

Xét trên tình hình hiện tại, chỉ tiêu tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân mà Quốc hội đề ra cho năm 2021 là chắc chắn đạt được, tuy nhiên bước sang năm 2022 giá nguyên liệu thế giới được dự báo tiếp tục tăng sẽ tạo áp lực lớn lên lạm phát trong nước và ảnh hưởng nhiều đến người dân, doanh nghiệp.
Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải - Người phát ngôn Bộ Công Thương tại buổi họp báo Chính phủ thường kỳ ngày 6/11/2021
Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải - Người phát ngôn Bộ Công Thương tại buổi họp báo Chính phủ thường kỳ ngày 6/11/2021

Trả lời câu hỏi của báo chí về ảnh hưởng của việc tăng giá nguyên liệu thế giới đến thị trường trong nước, Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải - Người phát ngôn Bộ Công Thương cho biết, điều đáng mừng là trong những tháng cuối năm 2021, chúng ta đã kiểm soát bước đầu đại dịch Covid-19, nhiều địa phương đã nới lỏng giãn cách. Tuy nhiên, giá nhiều mặt hàng, đặc biệt là giá nguyên liệu trên thế giới như xăng dầu, than, kể cả giá vận chuyển đều tăng, “không những tăng mà tăng rất cao”, ảnh hưởng trước hết đến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và lạm phát trong nước. 

CPI tháng 10/2021 giảm 0,2% so với tháng trước, tăng 1,67% so với tháng 12/2020 và tăng 1,77% so với tháng 10/2020. Tính chung 10 tháng năm 2021, CPI bình quân tăng 1,81%  so với cùng kỳ năm 2020, là mức tăng thấp nhất kể từ năm 2016. Lạm phát cơ bản 10 tháng tăng 0,84% so với cùng kỳ năm 2020. 

“Năm 2021, chắc chắn chúng ta sẽ đạt được mục tiêu mà Quốc hội đề ra khi CPI bình quân chỉ ở mức khoảng 2%, thậm chí dưới 2% (chỉ tiêu Quốc hội đề ra là khoảng 4%). Tuy nhiên, bước sang năm 2022, nền kinh tế thế giới và trong nước có khả năng phục hồi mạnh mẽ khi đạt được miễn dịch cộng đồng, cũng sẽ tạo áp lực nhất định lên lạm phát”, Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải nhận định.

Theo Thứ trưởng, đối với các mặt hàng thiết yếu, chắc chắn việc tăng giá các mặt hàng, nhất là các mặt hàng nguyên liệu như xăng, dầu và giá vận chuyển sẽ làm góp phần khiến giá thành cao lên, chi phí sản xuất cao lên, từ đó đưa giá hàng tiêu dùng trong nước tăng cao, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân và ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam đối với các mặt hàng thế mạnh khi xuất khẩu đi các nước.

Để ứng phó với vấn đề này, ngay từ đầu năm 2021, Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt và nhiều Bộ, ngành đã vào cuộc, góp phần giảm áp lực từ việc tăng giá nguyên liệu trên thế giới đối với thị trường trong nước.

Về phía mình, Bộ Công Thương đã quan tâm chỉ đạo quyết liệt 2 nhóm mặt hàng là xăng dầu và điện.

Đối với mặt hàng xăng dầu, Liên Bộ Công Thương - Tài Chính đã sử dụng linh hoạt, hiệu quả Quỹ Bình ổn giá để hạn chế mức tăng của giá xăng dầu trong nước so với mức tăng cao của giá xăng dầu thế giới. Từ đầu năm 2021 đến nay, giá xăng dầu thành phẩm bình quân trên thị trường thế giới dùng để tính giá cơ sở tăng 59,08% - 76,03%. Nhờ trích Quỹ Bình ổn giá xăng dầu, giá xăng dầu trong nước chỉ tăng 40,23% - 52,59%.

“Mặc dù đây vẫn là mức tăng khá cao, ảnh hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp và người dân, nhưng cũng là cố gắng, nỗ lực của liên Bộ và Chính phủ trong sử dụng Quỹ Bình ổn giá để điều hành giá xăng dầu”, Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải cho hay.

Đối với giá điện, trong 2 năm 2020-2021, trên cơ sở đề xuất của Bộ Công Thương, Chính phủ đã triển khai tổng cộng 5 đợt hỗ trợ giảm giá điện, giảm tiền điện, với tổng số tiền hỗ trợ giảm là 16.650 tỷ đồng. 

Theo Quyết định 24/2017/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 30/6/2017 quy định về cơ chế điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân, khi các mặt hàng đầu vào sản xuất ra điện tăng, thì có thể điều chỉnh giá điện. Tuy nhiên, Bộ Công Thương và các Bộ, ngành liên quan đã báo cáo Chính phủ trong năm 2021 sẽ không tăng giá điện. Việc điều chỉnh giá điện trong thời gian tới sẽ còn phụ thuộc vào tình hình thực tiễn, diễn biến thị trường thế giới và trong nước.

Để kiểm soát lạm phát và đảm bảo nguồn cung hàng hóa cho nhu cầu trong nước, Thứ trưởng Bộ Công Thương cho rằng cần tập trung triển khai một số giải pháp:

Thứ nhất, tiếp tục theo dõi chặt chẽ diễn biến giá cả toàn cầu và trong nước, kể cả tình hình lạm phát của các nước trên thế giới, để có sự tham khảo, kịp thời cảnh báo các nguy cơ ảnh hưởng đến giá cả và lạm phát của Việt Nam. Đặc biệt, cần đánh giá, nhận định các mặt hàng nguyên vật liệu nào có khả năng thiếu hụt về tạm thời hay dài hạn tại thị trường trong nước để từ đó đưa ra những chính sách đối ứng phù hợp.

Thứ hai, chủ động chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bảo đảm nguồn cung và lưu thông hàng hóa, giảm áp lực lạm phát; nhất là thông tin kịp thời, chính xác về các chính sách, giải pháp chỉ đạo của Chính phủ, các Bộ, ngành và các địa phương nhằm loại bỏ các thông tin sai lệch về giá cả thị trường, không để xảy ra hiện tượng lạm phát do tâm lý từ thông tin sai lệch.

Thứ ba, trên cơ sở dự báo giá cả thế giới tiếp tục tăng trong thời gian tới, cần nỗ lực thực hiện các biện pháp đàm phán để đảm bảo nguồn nguyên liệu thô thông qua tăng cường hợp tác từ cấp cao là Chính phủ đến cấp Bộ, ngành, doanh nghiệp, đặc biệt đối với các nước có nguồn tài nguyên dồi dào, và hỗ trợ các doanh nghiệp ký các hợp đồng nhập khẩu nguyên liệu dài hạn để đảm bảo nguyên liệu đầu vào, ổn định giá thành sản xuất, qua đó kiểm soát lạm phát và đảm bảo tối thiểu nhất ảnh hưởng của việc tăng giá nguyên liệu thế giới đến đời sống người dân và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Thy Thảo