Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội để phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của Việt Nam

ThS. HỒ DIỆU MAI (Khoa Quản lý Nhà nước về kinh tế, Học viện Hành chính Quốc gia - cơ sở TP. Hồ Chí Minh)

TÓM TẮT:

Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có tầm quan trọng hàng đầu không chỉ do nước ta có điểm xuất phát thấp, phải tăng trưởng nhanh để sớm thoát khỏi tình trạng kém phát triển, mà chỉ có tăng trưởng nhanh mới có thể thực hiện được các mục tiêu phát triển xã hội, nhằm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Trong xu hướng hội nhập hiện nay, hệ thống chính sách an sinh xã hội phải nhanh chóng có những điều chỉnh, từng bước hoàn thiện để phù hợp với chính sách và mô hình phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay.

Từ khóa: Hoàn thiện chính sách, an sinh xã hội; phát triển kinh tế.

1. Đặt vấn đề

An sinh xã hội (ASXH) là một trong những chính sách xã hội cơ bản thể hiện đường lối hướng vào mục tiêu phát triển con người, thúc đẩy công bằng và tiến bộ, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Chiến lược an sinh xã hội của Việt Nam vẫn chưa hướng vào được mục tiêu nhằm nâng cao năng lực tự chống đỡ của người dân. Độ bao phủ của hệ thống an sinh xã hội còn thấp, đối tượng hẹp, chưa khắc phục được bất bình đẳng. Chính sách trợ giúp xã hội là biện pháp công cụ tác động để thực hiện mục tiêu đảm bảo cuộc sống cho bộ phận dân cư không may gặp phải hoàn cảnh khó khăn, việc mở rộng hệ thống an sinh xã hội ở những nước có thu nhập trung bình như Việt Nam rất quan trọng để giảm bất bình đẳng và đảm bảo công bằng cho người dân. Đây cũng là một mục tiêu quan trọng trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Đầu tư vào con người sẽ đảm bảo hiệu quả trong phát triển kinh tế và an sinh xã hội giúp giải quyết nhiều mục tiêu về phát triển xã hội và phải coi đây là một đầu tư chứ không phải là chi phí. Việt Nam - mặc dù trong thời gian ngắn đã có được một hệ thống an sinh xã hội cơ bản, nhưng để phù hợp với chiến lược phát triển bền vững trong hội nhập, cần phải nhanh chóng và quyết liệt hiện đại hóa hệ thống trợ giúp xã hội nhiều hơn nữa. Chính sách an sinh xã hội toàn diện, công bằng và tiên tiến sẽ là điều kiện nền tảng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay và tương lai.

2. Chính sách tăng trưởng kinh tế Việt Nam

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập hay sản lượng thực tế được tính cho toàn bộ nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Tăng trưởng kinh tế, xét ở đầu vào là do 3 yếu tố: Số lượng vốn đầu tư, số lượng lao động và năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) mà chủ yếu là: Tiến bộ công nghệ, kỹ thuật, hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào là lao động, vốn đầu tư. Tăng trưởng kinh tế dựa vào 2 yếu tố đó là sự tăng trưởng theo bề rộng (tăng trưởng về số lượng), và tăng trưởng về chất lượng (phát triển theo chiều sâu).

Tăng trưởng kinh tế ở nước ta có tầm quan trọng hàng đầu không chỉ do nước ta có điểm xuất phát thấp, phải tăng trưởng nhanh để sớm thoát khỏi tình trạng kém phát triển, rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế, khoa học - công nghệ so với các nước trong khu vực và thế giới, mà chỉ có tăng trưởng nhanh mới có thể thực hiện được các mục tiêu phát triển xã hội như, tạo việc làm, tăng thu nhập của dân cư, xóa đói giảm nghèo, phát triển giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa... thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế ngay sau khi đổi mới đã đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dài nhiều năm sau ngày đất nước hòa bình, thống nhất; đã đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng nước kém phát triển và bước vào nhóm nước đang phát triển có nhu nhập trung bình thấp theo xếp hạng của WB. Tăng trưởng kinh tế đã góp phần giải quyết tốt các vấn đề xã hội bức xúc: Lao động, việc làm, thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống, xóa đói giảm nghèo, thực hiện an sinh xã hội, tiến bộ và công bằng xã hội từng bước được thực hiện.

Tăng trưởng kinh tế trong những năm qua vẫn chủ yếu theo bề rộng, chưa chú trọng phát triển theo chiều sâu, chất lượng tăng trưởng thấp, hiệu quả của tăng trưởng hạn chế, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm hàng hóa còn kém. Tăng trưởng kinh tế của nước ta chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, tăng vốn đầu tư và lao động rẻ. Động lực của tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là các ngành công nghiệp gia công, lắp ráp có tỷ lệ chi phí trung gian cao, phụ thuộc vào nhập khẩu tiêu tốn ngoại tệ, thường gây ô nhiễm môi trường và khu vực dịch vụ chưa có tăng trưởng rõ rệt. Đầu tư dàn trải, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư thấp, nhất là nguồn vốn đầu tư của Nhà nước. Hiệu quả đầu tư thể hiện ở chỉ số ICOR có xu hướng tăng cao. Chỉ số ICOR cao đồng nghĩa với hiệu quả đầu tư thấp và sụt giảm, năng lực cạnh tranh giảm. Theo khuyến cáo của WB, hệ số ICOR 3,0 là hệ số phản ánh đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững đối với các nước đang phát triển, trong khi đó ICOR chung của nền kinh tế là 8,0. Tăng trưởng kinh tế cao, nhưng chưa bền vững, tăng trưởng chưa gắn chặt với giảm nghèo, tăng trưởng cũng làm phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc: việc làm cho người lao động, phân hóa giàu nghèo gia tăng, sự chênh lệch về trình độ phát triển, về thu nhập... giữa các vùng, miền ngày càng lớn, môi trường bị ô nhiễm và suy thoái nghiêm trọng, tệ nạn xã hội vẫn diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng, đặc biệt là tệ nạn ma túy, mại dâm. Trước áp lực của hội nhập nhất thiết cần có sự chuyển đổi mô hình tăng trưởng của Việt Nam, hiện nay mô hình tăng trưởng của Việt Nam phải chuyển từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô, vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả và tính bền vững. Nói cách khác, chuyển đổi mô hình tăng trưởng hiện nay về bản chất là thay đổi động lực của tăng trưởng kinh tế, tăng năng suất lao động; hiệu quả sử dụng các nguồn lực phải được cải thiện để dần thay thế số lượng đầu tư, lao động chất lượng thấp, tài nguyên thiên nhiên và từ đó trở thành động lực của tăng trưởng kinh tế.

3. Hệ thống chính sách an sinh xã hội Việt Nam hiện nay

Do điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa lịch sử, mầm mống về an sinh xã hội (ASXH) đã có trong dân gian nước ta. Những câu thành ngữ “áo lành đùm áo rách”, “thương người như thể thương thân”, “bầu ơi thương lấy bí cùng”…, đã thể hiện tính cộng đồng ở nước ta và nó đã góp phần điều chỉnh các hành vi trong xã hội về các hoạt động mang nội dung ASXH và dần được Nhà nước xây dựng thành các chính sách về ASXH. Một đặc trưng cơ bản của các hoạt động ASXH ở Việt Nam trong thời kỳ trước đổi mới là do Nhà nước thực hiện. Cũng như các nước có nền kinh tế thị trường, kinh tế thị trường ở Việt Nam đã làm cho đời sống kinh tế - xã hội năng động hơn, đa dạng hơn. Kinh tế thị trường mới tạo điều kiện hình thành các thành phần kinh tế. Người lao động có cơ hội và có điều kiện hơn phát huy được tiềm năng và khả năng của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trong các hoạt động xã hội. Trong thời gian gần đây, hệ thống ASXH của Việt Nam ngày càng thể hiện vai trò to lớn đối với sự phát triển và ổn định kinh tế - xã hội, đó là:

Thứ nhất, bảo đảm an sinh xã hội gắn với tiến bộ và phát triển xã hội, với thành tựu phát triển kinh tế trong bối cảnh kinh tế thị trường. Các chương trình xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam ở tầm quốc gia đã thu được những kết quả rất tốt đẹp. Về việc giải quyết các vấn đề xã hội và thực hiện các chính sách ASXH cho các cộng đồng dân cư, Việt Nam là một trong những quốc gia đã hoàn thành sớm các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, nhận được những đánh giá tích cực của cộng đồng quốc tế.

Thứ hai, hệ thống pháp luật từng bước được hoàn thiện để bảo đảm quyền ASXH cho mọi người dân. Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên khẳng định quyền ASXH cơ bản cho người dân và hàng loạt những bộ luận được ban hành và hoàn thiện tạo ra hành lang pháp lý cho việc thực hiện những chính sách ASXH ngày càng hiệu quả.

Thứ ba, đầu tư của Nhà nước cho ASXH ngày càng tăng. Nếu như năm 2012 tổng chi cho ASXH bằng 5,88% GDP thì đến năm 2015 con số này tăng lên khoảng trên 6,6% GDP, thực hiện hiệu quả các chính sách xã hội từ nhiều nguồn lực trong đó các nguồn lực chính là nguồn lực Nhà nước, nguồn lực từ bên ngoài (như nguồn ODA, các chương trình viện trợ không hoàn lại của nước ngoài), nguồn lực xã hội từ các doanh nghiệp, tổ chức và nguồn lực từ trong nhân dân.

Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu, song vẫn còn những hạn chế, tồn tại trong việc thực hiện các chính sách xã hội. Trong giai đoạn từ năm 2009 đến nay, do chịu tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tăng trưởng GDP của Việt Nam giảm từ trên 8% (năm 2008) xuống còn khoảng 6,2% (năm 2016), khả năng huy động ngân sách cho ASXH gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, từ năm 2012, Việt Nam đã bước vào ngưỡng thu nhập trung bình, nên các tài trợ quốc tế không hoàn lại bị cắt giảm đáng kể. Việt Nam lại thuộc nhóm nước Đông Nam Á chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu, như mưa bão, lũ lụt thường xuyên, nước biển dâng,… gây thiệt hại mỗi năm khoảng trên 1% GDP. Xu hướng già hóa dân số nhanh hơn dự kiến đặt ra những thách thức về chi phí liên quan đến chăm sóc sức khỏe người cao tuổi và chính sách ASXH. Hệ thống chính sách ASXH hiện hành còn phân tán, manh mún, thiếu sự gắn kết, chưa khuyến khích người dân tích cực tham gia. Tình hình trên đã và đang đặt ra những thách thức đối với việc bảo đảm ASXH ở Việt Nam hiện nay, nhất là trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới và nước ta đang thực hiện tái cấu trúc mô hình tăng trưởng.

Một là, những hạn chế của bản thân hệ thống chính sách, pháp luật về ASXH và công tác tổ chức thực hiện chưa theo kịp với đòi hỏi của kinh tế thị trường định hướng XHCN và xu hướng phát triển của thế giới. Nhìn chung, hệ thống chính sách ASXH của Việt Nam còn đang trong quá trình hình thành, chưa đồng bộ, hệ thống văn bản pháp luật về ASXH chưa đầy đủ và chưa hoàn thiện.

Hai là, các nguy cơ, rủi ro kinh tế, xã hội, môi trường ngày càng có xu hướng gia tăng trong quá trình Việt Nam thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và hội nhập quốc tế, gây áp lực tới bảo đảm ASXH cho người dân, nhất là các nhóm xã hội yếu thế. Hiện nay, Việt Nam đang chuyển từ mô hình phát triển bề rộng, sử dụng nhiều lao động phổ thông giản đơn và vốn, tài nguyên, hiệu quả thấp sang phát triển theo chiều sâu, nâng cao giá trị gia tăng, tập trung vào các ngành có hàm lượng công nghệ cao, phát triển kinh tế tri thức. Tình hình trên sẽ tác động mạnh tới các khía cạnh của ASXH, đặt ra những thách thức mới như vấn đề việc làm, cơ cấu lại lao động ngành nghề, thu nhập, nhà ở, giáo dục, y tế, gia tăng thất nghiệp, phân hóa xã hội, phân tầng thu nhập, bất bình đẳng xã hội.

Ba là, hiện tượng già hóa dân số cũng đặt ra nhiều khó khăn cho hệ thống ASXH hiện tại và tương lai. Theo ước tính của Ủy ban Quốc gia Người cao tuổi, tỷ lệ người cao tuổi ở Việt Nam sẽ là 16% vào năm 2020 và tiếp tục tăng vào những năm sau đó. Điều này sẽ tạo áp lực lớn lên hệ thống y tế, BHXH, các dịch vụ chăm sóc xã hội cho người cao tuổi.

4. Hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội để phù hợp với chính sách tăng trưởng kinh tế của Việt Nam

Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, toàn diện, từng bước mở rộng diện bao phủ, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ đang là đích đến của các quốc gia trên thế giới. Theo đó, chính sách ASXH cần tập trung hoàn thiện vào các nội dung chính như sau:

Một là, bảo đảm ASXH là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Trong đó, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách ASXH, đồng thời phát huy vai trò và trách nhiệm của cộng đồng trong việc bảo đảm ASXH theo tinh thần xã hội hóa. Đến năm 2020, Việt Nam cần cơ bản hình thành hệ thống ASXH bao phủ toàn dân, bảo đảm cho người dân tiếp cận đến các chính sách việc làm, giảm nghèo, tham gia bảo hiểm xã hội, hỗ trợ những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tăng cường các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu.

Hai là, hoàn thiện hệ thống lý luận về ASXH phù hợp bối cảnh của nước vừa bước vào ngưỡng thu nhập trung bình, hội nhập kinh tế ASEAN, gắn chính sách ASXH với chính sách phát triển kinh tế phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế.

Ba là, hoàn thiện thị trường lao động, phát triển việc làm, bảo đảm ASXH bền vững. Hiện đại hóa thị trường lao động, kết nối cung cầu lao động; phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa để tạo việc làm và chuyển dịch cơ cấu việc làm.

Bốn là, tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý, các chính sách và giải pháp bảo đảm ASXH. Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật về ASXH, nghiên cứu ban hành các văn bản pháp luật về ASXH cộng đồng, nhằm bảo đảm cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện đồng bộ, nghiêm túc, hiệu quả các quy định, chính sách, chế độ ASXH.

Năm là, tăng cường huy động các nguồn lực cho chính sách ASXH. Tăng chi ngân sách nhà nước về ASXH đạt mức trung bình khu vực Đông Nam Á (khoảng 7% GDP) kết hợp với huy động đóng góp của người dân, doanh nghiệp và xã hội cho ASXH. Khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi để phát triển đa dạng các mô hình ASXH, các hoạt động từ thiện, tình nguyện dựa vào sự tham gia của cộng đồng (các đoàn thể địa phương, các nhóm sở thích, nghiệp đoàn, gia đình, dòng họ, cá nhân...) trong việc cung cấp các dịch vụ ASXH, thực hiện các hoạt động nhân đạo, giúp đỡ, chia sẻ rủi ro đối với những nhóm yếu thế, những đối tượng đặc thù.

5. Những kiến nghị về phương hướng và biện pháp

5.1. Về phương hướng

Trong điều kiện cụ thể và những hạn chế nhất định về nguồn lực, hệ thống ASXH nước ta cần tiếp cận phát triển theo hướng: 1) Phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước hiện nay và trong tương lai; 2) Tập trung hỗ trợ đối tượng người nghèo, người dân tộc thiểu số, người có hoàn cảnh đặc thù; 3) Mở rộng xã hội hóa nhằm mở rộng khả năng cho việc huy động nguồn lực thực hiện ASXH; 4) Thích ứng với các chuẩn mực khu vực và quốc tế tạo sự thuận lợi cho sự hợp tác quốc tế trong việc thực hiện chính sách ASXH ở Việt Nam.

5.2. Về giải pháp

1. Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý, các chính sách và giải pháp bảo đảm ASXH. Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật về ASXH, trong đó cần nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật Việc làm, Luật Tiền lương tối thiểu, Luật Cứu trợ xã hội, Luật Ưu đãi xã hội; Nghiên cứu sửa đổi Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Người tàn tật, Luật Người cao tuổi...; nghiên cứu ban hành các văn bản pháp luật về ASXH cộng đồng, nhằm đảm bảo cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện đồng bộ, nghiêm túc, hiệu quả các quy định, chính sách, chế độ ASXH.

2. Hoàn thiện tổ chức, bộ máy, cơ chế quản lý, thực hiện công tác ASXH theo hướng đa dạng hóa tổ chức dịch vụ ASXH. Rà soát, củng cố và hoàn thiện hệ thống các cơ quan thực hiện công tác ASXH các cấp từ trung ương đến địa phương, đặc biệt là cấp cơ sở. Tăng cường lực lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác ASXH.

3. Đổi mới quản lý nhà nước về ASXH. Tăng cường vai trò chủ đạo của Nhà nước trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách ASXH; thực hiện tốt sự phối kết hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước và màng lưới các tổ chức thực hiện chính sách ASXH; hiện đại hóa công tác quản lý đối tượng ASXH, xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử về chính sách ASXH tại mỗi địa phương để nhân dân có thể truy cập dễ dàng; tăng cường hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát thực hiện công tác ASXH ở tất cả các cấp, các ngành, đoàn thể từ trung ương đến địa phương và cơ sở, thực hiện tiết kiệm chi tiêu công, chống tham nhũng, lãng phí, thất thoát, vi phạm pháp luật trong lĩnh vực ASXH; xây dựng bộ chỉ số ASXH làm cơ sở để theo dõi, đánh giá hiệu quả thực hiện ASXH của đất nước trong từng thời kỳ và tham chiếu với quốc tế.

4. Tăng cường công tác thông tin, truyền thông, tuyên truyền, phổ biến đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các thông tin về ASXH nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các đoàn thể và người dân về lĩnh vực này.

5. Tăng cường sự đầu tư của Nhà nước, làm tốt công tác xã hội hóa, huy động sự tham gia của toàn xã hội và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế trong việc đảm bảo ASXH. Nhà nước tăng cường đầu tư bảo đảm nguồn lực và cơ chế tài chính thực hiện ASXH theo phương châm từng bước mở rộng diện bao phủ tiến tới bao phủ toàn dân. Quản lý chặt chẽ quỹ ASXH, hình thành các quỹ dự phòng và cơ chế hỗ trợ kịp thời cho các đối tượng khi có rủi ro đột xuất.

6. Kết luận

Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, hệ thống chính sách, pháp luật đang đòi hỏi phải có sự đổi mới ngày càng nhanh hơn, cao hơn, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Việc thể chế hóa quyền được bảo đảm ASXH của người dân được thể hiện qua việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về ASXH. Sự khác biệt cơ bản của các chính sách so với trước đây là phạm vi bao phủ ASXH ngày càng rộng hơn và chất lượng ASXH ngày càng cao hơn, đáp ứng nhu cầu đa dạng của các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, trong thời gian tới, các chính sách này vẫn cần tiếp tục hoàn thiện để tăng độ bao phủ an sinh cho NLĐ, người dân, đặc biệt là NLĐ làm việc trong khu vực phi chính thức, nông dân. Với mục tiêu mở rộng đối tượng tham gia BHXH đến năm 2020 đạt 50% lực lượng lao động (khoảng 29 triệu lao động) và BH thất nghiệp đạt 35% lực lượng lao động; phấn đấu tiếp tục tăng diện bao phủ của BHYT đạt 80% dân số vào năm 2020.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Holger Rogall (2011), Kinh tế học bền vững, Nhà xuất bản Khoa học tự nhiên và Công nghệ.

2. Jean Yves Martin (2007), Phát triển bền vững: Học thuyết, thực tiễn, đánh giá, Nhà xuất bản Thế giới.

3. Mai Ngọc Cường (2009), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

4. Lê Quốc Lý (2014), Chính sách an sinh xã hội, thực trạng và giải pháp, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

5. Phạm Văn Sáng (2009), Lý thuyết và mô hình an sinh xã hội - phân tích thực tiễn ở Đồng Nai, Nhà xuất banản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

ENHANCING SOCIAL SECURITY POLICIES OF VIETNAM TO ADAPT TO THE CURRENT COUNTRYS DEVELOPMENT MODEL AND POLICIES

ME.  HO DIEU MAI

Faculty of State management in economics, National Academy of Public Administration, Ho Chi Minh City Campus

ABSTRACT:

The growth of Vietnam’s economy is one of the most important concerns of Vietnam because the country has a low starting point. The country needs a strong economic growth to escape underdevelopment situation and implement socio-economic development policies in order to ensure social justice in Vietnam. In the context of integration process, it is important for Vietnam to amend and gradually enhance its system of social security policies to adapt to the current Vietnam’s development model and policies.

Keywords: Enhancing the policy, social security, economic development.


Xem toàn bộ ấn phẩm Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 03 tháng 03/2017 tại đây