TÓM TẮT:

Việc kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán cho các đơn vị có lợi ích công chúng thuộc lĩnh vực chứng khoán luôn là mối quan tâm hàng đầu không chỉ của chính doanh nghiệp (DN) kiểm toán mà còn của cả các cơ quan chức năng, trong đó có Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN).

Bài viết này tập trung vào một vấn đề quan trọng trong công tác quản lý hoạt động kiểm toán độc lập của UBCKNN, đó là giám sát và hoàn thiện kiểm soát chất lượng kiểm toán (KSCLKT) cho các đơn vị có lợi ích công chúng thuộc lĩnh vực chứng khoán ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. 

Từ khóa: kiểm soát chất lượng, chất lượng kiểm toán, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.

1. Đặt vấn đề

Kiểm toán độc lập ra đời, tồn tại và phát triển không chỉ góp phần tạo niềm tin cho những người quan tâm đối với thực trạng hoạt động tài chính của các DN mà còn là một trong những công cụ quan trọng trong công tác quản lý vĩ mô. Trước hết, kiểm toán độc lập phục vụ lợi ích thiết thực cho các chủ sở hữu, các nhà đầu tư và sau đó góp phần ngăn chặn các sai phạm về kinh tế - tài chính. Kết quả của kiểm toán độc lập còn hỗ trợ đắc lực cho công tác điều hành, ra quyết định của các cơ quan quản lý nhà nước và thúc đẩy các hoạt động sản xuất, thương mại - dịch vụ, đầu tư phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, một câu hỏi được đặt ra: “Liệu vai trò, ý nghĩa của kiểm toán có còn được duy trì để thỏa mãn sự kỳ vọng của đông đảo công chúng hay không khi mà thực tế liên tiếp xuất hiện những vụ bê bối về chất lượng kiểm toán của các DN kiểm toán (DNKiT) độc lập”? Đặc biệt là những DNKiT cung cấp dịch vụ kiểm toán cho các đơn vị có lợi ích công chúng thuộc lĩnh vực chứng khoán. Bên cạnh đó, nhiều vấn đề cũng được nêu ra như “kiểm soát chất lượng trong hoạt động kiểm toán của các DN này có được các cơ quan có trách nhiệm thực thi hay không? Và nếu có thì được thực hiện như thế nào?”.

Ở Việt Nam, kể từ khi thành lập cho đến nay đã qua 25 năm, UBCKNN ngày càng khẳng định được vai trò quan trọng của mình trong quản lý, điều hành, giám sát thị trường chứng khoán. Theo đó, lĩnh vực công tác về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán cho đơn vị có lợi ích công chúng thuộc lĩnh vực chứng khoán được đánh giá đã có nhiều chuyển biến đáng kể và đạt được nhiều thành tựu, có ý nghĩa thiết thực.

Tuy nhiên, giữa bối cảnh toàn cầu hóa hội nhập sâu rộng trong lĩnh vực kế toán - kiểm toán hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán (TTCK) ngày càng đặt ra cho UBCKNN nhiều áp lực để hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát triển. Vì vậy, việc nghiên cứu mô hình KSCLKT cho các đơn vị có lợi ích công chúng ở một số quốc gia phát triển trên thế giới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với UBCKNN trong giai đoạn hiện nay.

2. Mô hình kiểm soát chất lượng kiểm toán cho các đơn vị có lợi ích công chúng ở một số quốc gia trên thế giới

2.1. Mô hình kiểm soát chất lượng kiểm toán cho các đơn vị có lợi ích công chúng tại Hoa Kỳ

Hiện nay, việc kiểm soát chất lượng (KSCL) các dịch vụ kế toán, kiểm toán ở Hoa Kỳ được thực hiện thông qua tổ chức phối hợp thực hiện của hai tổ chức Hiệp hội Kế toán viên công chứng Hoa Kỳ (AICPA) và Ủy ban Giám sát hoạt động kiểm toán cho các công ty đại chúng (Public Company Accounting Oversight Board - PCAOB). Trong đó, PCAOB có chức năng tương tự như cơ quan quản lý nhà nước và AICPA là hiệp hội nghề nghiệp.

PCAOB là tổ chức phi Chính phủ nhưng có chức năng như tổ chức Chính phủ và chủ tịch PCAOB do Ủy ban Chứng khoán Quốc gia Hoa Kỳ (SEC) chỉ định. Đối tượng giám sát của PCAOB chủ yếu tập trung vào khu vực tư và có mục tiêu:

Thứ nhất, PCAOB tiến hành giám sát việc tuân thủ các quy định, chuẩn mực kiểm toán nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán, từ đó thúc đẩy việc tuân thủ các chuẩn mực và quy định pháp luật hiện hành.

Thứ hai, tăng cường huấn luyện, đào tạo và nhận thông tin phản hồi từ các bên sử dụng kết quả kiểm toán và các đối tượng khác có liên quan đến hoạt động giám sát của PCAOB. 

Yêu cầu đăng ký: Theo Luật Sarbanes-Oxley, công ty kiểm toán thực hiện kiểm toán cho các công ty đại chúng phải đăng ký với PCAOB và đồng ý rằng các cuộc kiểm toán của họ sẽ được kiểm soát đều đặn bởi PCAOB. 

Thực hiện kiểm tra: PCAOB tiến hành kiểm tra định kỳ thường là hàng năm đối với các công ty có phát hành báo cáo kiểm toán cho hơn 100 khách hàng và ít nhất 3 năm một lần đối với các công ty phát hành ít hơn 100 báo cáo kiểm toán. Trước khi kiểm tra, PCAOB thông báo cho công ty kiểm toán kế hoạch tiến hành kiểm tra. PCAOB cũng yêu cầu công ty kiểm toán cung cấp thông tin về các hợp đồng kiểm toán công ty đại chúng, nhân sự thực hiện cuộc kiểm toán đó và chương trình KSCL của công ty. Thông thường, cuộc kiểm tra thực tế được thực hiện tại công ty kiểm toán. 

Báo cáo kết quả kiểm tra: Tất cả các báo cáo đều có phần công bố rộng rãi (Phần I) và hầu hết các báo cáo cũng bao gồm một phần không được công bố đó là việc thảo luận về KSCL của công ty được kiểm tra (Phần II). 

Theo Luật Sarbanes-Oxley, nội dung trong báo cáo kiểm tra liên quan đến các phát hiện về các yếu kém trong hệ thống KSCL của công ty sẽ không công bố rộng rãi đến công chúng nếu như công ty đã khắc phục các yếu kém này trong vòng 12 tháng kể từ ngày báo cáo.

Tuy nhiên, các yếu kém này sẽ được công bố cho công chúng nếu như: (1) PCAOB không đồng ý về việc khắc phục của công ty; (2) công ty không đưa ra được bằng chứng về việc khắc phục các yếu kém. Đạo luật Sarbanes - Oxley cũng đòi hỏi kiểm tra viên của PCAOB phải lập báo cáo bằng văn bản sau đợt kiểm tra và gửi báo cáo cho SEC và cơ quan quản lý nhà nước có liên quan.  

Kinh phí hoạt động của PCAOB: Kinh phí dùng cho hoạt động của PCAOB do các công ty kiểm toán đóng góp và từ các công ty có chứng khoán phát hành ra công chúng.

Đối với các công ty kiểm toán, khi đăng ký thành viên sẽ phải nộp phí và chỉ nộp một lần đầu. Mức phí dựa vào số lượng khách hàng của công ty kiểm toán. Đối với công ty có chứng khoán phát hành ra công chúng, phí hỗ trợ kiểm toán được thu dựa trên giá trị vốn hóa trung bình hàng tháng của các công ty có chứng khoán giao dịch ở thị trường chứng khoán Mỹ. 

2.2. Mô hình kiểm soát chất lượng kiểm toán cho các đơn vị có lợi ích công chúng tại Trung Quốc

Trung Quốc là quốc gia khá phát triển và có nhiều điểm tương đồng về kinh tế - chính trị với Việt Nam. Việc kiểm soát chất lượng (KSCL) hoạt động kiểm toán độc lập tại Trung Quốc do cơ quan nhà nước là Bộ Tài chính, UBCKNN và Hội Nghề nghiệp thực hiện. Ở mỗi cấp lại chia ra thành hai cấp trung ương (TW) và địa phương khác nhau thực hiện.

Theo quy định của Luật Chứng khoán Trung Quốc năm 1992, UBCKNN là cơ quan ngang Bộ, trực thuộc Hội đồng Nhà nước chịu trách nhiệm giám sát việc công bố thông tin của các tổ chức niêm yết và xem xét, chấp thuận DNKiT đủ điều kiện kiểm toán tổ chức niêm yết và giám sát việc kiểm toán các tổ chức niêm yết. Toàn bộ nguồn thu, chi của UBCKNN đều thuộc ngân sách nhà nước. Kinh phí hoạt động của UBCKNN do ngân sách nhà nước cấp, riêng nguồn thu phí để thực hiện kiểm tra, giám sát do các tổ chức phát hành chứng khoán và DNKiT đóng góp.

UBCKNN cùng với Bộ Tài chính là cơ quan cấp và thu hồi giấy phép hành nghề cho các DNKiT cung cấp dịch vụ kiểm toán BCTC cho các công ty đại chúng và niêm yết. UBCKNN có một cơ quan giúp việc là Vụ Chế độ Kế toán (Vụ Chế độ Kế toán này khác với Vụ Chế độ Kế toán của Bộ Tài chính). Cơ quan này thực hiện việc nghiên cứu, xây dựng và ban hành các chuẩn mực và các quy định về kế toán riêng liên quan đến các hoạt động của TTCK và giao dịch tương lai. Ngoài ra, cơ quan này có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra và giám sát các DNKiT. Các Văn phòng UBCKNN cấp địa phương chịu trách nhiệm thanh tra, kiểm tra CLKT theo quy định tại Hướng dẫn hành nghề kiểm toán tại Trung Quốc. Vụ Chế độ kế toán (của UBCKNN) thực hiện kiểm tra định kỳ các DNKiT. Chu kỳ kiểm tra là 3 năm một lần và kiểm tra các nội dung: Chất lượng từ bên trong (nội bộ) của bản thân DNKiT và hiệu quả của hệ thống quản trị nội bộ; Tính phù hợp và hiệu quả của hệ thống KSCL; Công việc kiểm toán có được thực hiện theo chuẩn mực kiểm toán hay không.

Ngoài kiểm tra thường xuyên, còn có kiểm tra đột xuất đối với các vấn đề bất thường phát sinh. Các Văn phòng UBCKNN cấp địa phương thực hiện kiểm tra chất lượng hàng năm trên nguyên tắc không trùng lắp và đảm bảo tất cả các DNKiT phải được kiểm tra. Hàng năm, UBCKNN đều tổ chức họp các DNKiT thực hiện kiểm toán các tổ chức niêm yết để trao đổi các vấn đề quan trọng về kiểm toán cần tập trung của từng năm.

Khi phát hiện các DNKiT có vi phạm, nếu phát hiện qua kiểm tra định kỳ của UBCKNN cấp địa phương hoặc phát hiện qua các báo cáo hàng năm, hoặc qua báo chí, qua tố giác sẽ bị xử phạt hành chính như phạt tiền, cảnh cáo hoặc triệu tập đương sự đến giải trình tại Ủy ban xử phạt hành chính. Nếu phát hiện tình tiết có liên quan đến hình sự thì chuyển hồ sơ sang Ban Thanh tra UBCKNN để tiến hành điều tra. Nếu phát hiện vi phạm cấu thành tội phạm thì chuyển hồ sơ sang cơ quan tố tụng.

3. Thực trạng về công tác KSCLKT cho các đơn vị có lợi ích công chúng thuộc lĩnh vực chứng khoán của UBCKNN hiện nay

Ngày 4/12/2013, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 183/2013/TT-BTC về kiểm toán độc lập đối với các đơn vị có lợi ích công chúng và Thông tư số 157/2014/TT-BTC ngày 23/10/2014 của Bộ Tài chính ban hành về quy định kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán, thay thế cho các nội dung liên quan đến KSCL đã được quy định tại Quyết định số 32/2007/QĐ-BTC. Theo đó, Bộ Tài chính thực hiện việc quản lý và giám sát các công ty kiểm toán nói chung, UBCKNN được ủy quyền thực hiện việc quản lý và giám sát các công ty kiểm toán trong lĩnh vực chứng khoán. Việc phối hợp giữa Bộ Tài chính và UBCKNN trong quản lý và giám sát công ty kiểm toán là việc làm thường xuyên và thực hiện theo Quyết định số 767/QĐ-BTC ngày 23/4/2015 về quy chế phối hợp giữa các đơn vị trong chấp thuận, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm đối với các tổ chức kiểm toán và kiểm toán viên (KiTV) hành nghề được chấp thuận kiểm toán cho đơn vị có lợi ích công chúng.

Việc giám sát công ty kiểm toán chấp thuận được UBCKNN thực hiện qua 3 hình thức: giám sát từ xa (qua báo cáo, báo chí, tin đồn, qua đơn thư phản ánh của cổ đông, nhà đầu tư...); giám sát theo yêu cầu và kiểm tra trực tiếp tại công ty kiểm toán (kiểm tra định kỳ, bất thường và theo yêu cầu).

Trong năm 2017, UBCKNN đã chủ trì kiểm tra trực tiếp 9 DNKiT được chấp thuận kiểm toán cho đơn vị có lợi ích công chúng thuộc lĩnh vực chứng khoán, đến năm 2018 kiểm tra 7 DN, năm 2019 kiểm tra 10 DN và năm 2020 UBCKNN đã tổ chức kiểm tra 8 DNKiT.

Mục đích kiểm tra:

Đánh giá việc xây dựng, phổ biến và tổ chức thực hiện các chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng nội bộ của DN kiểm toán; Đánh giá tình hình tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp, các quy định pháp luật và các quy định có liên quan trong việc cung cấp dịch vụ kiểm toán của DN kiểm toán và kiểm toán viên hành nghề; Phát hiện, chấn chỉnh và xử lý kịp thời những sai phạm được phát hiện qua công tác kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán.

Nội dung và phạm vi kiểm tra:

Nội dung: Kiểm tra việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng nội bộ của DN kiểm toán; Kiểm tra việc thực hiện các hợp đồng dịch vụ kiểm toán đã hoàn thành của DN kiểm toán và kiểm toán viên hành nghề; Kiểm tra tính tuân thủ các quy định khác của pháp luật về kiểm toán độc lập và pháp luật có liên quan.

Phạm vi kiểm tra: Trong giai đoạn 2017 - 2020 chỉ bao gồm việc kiểm tra và đánh giá về chất lượng dịch vụ đối với hồ sơ kiểm toán báo cáo tài chính (BCTC) mà không kiểm tra hồ sơ kiểm toán báo cáo quyết toán dự án hoàn thành.

Thành phần đoàn kiểm tra:

UBCKNN chủ trì phối hợp với Cục Quản lý, Giám sát Kế toán, Kiểm toán - Bộ Tài chính, Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) và Kiểm toán viên hành nghề tại các công ty kiểm toán, đặc biệt là từ các công ty kiểm toán Big 4 và 2 công ty kiểm toán Việt Nam là AASC và A&C, với vai trò trợ giúp kỹ thuật cho các đoàn kiểm tra. Kết quả kiểm tra đều được UBCKNN tổng hợp báo cáo Bộ Tài chính.

Quy trình kiểm tra:

Đoàn kiểm tra đã thực hiện kiểm tra, đánh giá việc thiết kế và thực hiện hệ thống KSCL của DN được kiểm tra theo quy định tại Thông tư số 157/2014/TT-BTC và theo Quyết định số 1281/QĐ-UBCK ngày 18/11/2016 của Chủ tịch UBCKNN về việc ban hành tài liệu hướng dẫn kiểm tra chất lượng dịch vụ kiểm toán, cụ thể là: Kiểm tra hệ thống kiểm soát chất lượng và Kiểm tra việc tuân thủ Chuẩn mực kiểm toán của DN được kiểm tra.

Tổng hợp kết quả kiểm tra:

- Tổng hợp kết quả kiểm tra chất lượng dịch vụ kiểm toán của các công ty kiểm toán:

Căn cứ kết quả kiểm tra tính tuân thủ, kiểm tra hệ thống, kiểm tra kỹ thuật và xét đoán chuyên môn, số các DNKiT được đánh giá xếp loại qua các năm như sau:

Bảng 1. Tổng hợp xếp loại kết quả kiểm tra chất lượng dịch vụ kiểm toán của các DNKiT

Tổng hợp xếp loại kết quả kiểm tra chất lượng dịch vụ kiểm toán của các DNKiT

Nguồn: Tác giả tổng hợp

- Tổng hợp tình hình thực hiện dịch vụ kiểm toán BCTC của các công ty kiểm toán:

+ Những mặt đạt được:

Theo UBCKNN, DNKiT được kiểm tra cơ bản đã ban hành quy chế kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán; ban hành quy chế tuyển dụng nhân viên, quy chế đào tạo; thực hiện đào tạo nhân viên hàng năm, phổ biến quy chế KSCL; thực hiện tuyển dụng nhân viên, ký hợp đồng lao động; thực hiện ký hợp đồng kiểm toán và soát xét báo cáo tài chính theo quy định; thực hiện lập và lưu trữ hồ sơ kiểm toán báo cáo tài chính theo quy định.

+ Những hạn chế thiếu sót:

Giai đoạn 2017 - 2020, số các DNKiT được kiểm tra và được UBCKNN xếp loại tốt chỉ chiếm dưới 35%, tập trung chủ yếu vào các DN thuộc nhóm Big 4 và các DNKiT có quy mô lớn.

Dựa trên cơ sở đánh giá rủi ro đối với các DNKiT, các đoàn kiểm tra của UBCKNN đã thực hiện chọn mẫu từ 3 đến 5 hồ sơ kiểm toán báo cáo tài chính đã hoàn thành của các DNKiT phát hành trong các năm 2017 - 2018; 2018 - 2019; 2019 - 2020 để kiểm tra và chỉ ra những điểm hạn chế, thiếu sót như sau:

Thứ nhất, thủ tục đánh giá rủi ro và chấp nhận khách hàng sơ sài; Chưa xác định rủi ro có sai sót trọng yếu trong từng khoản mục và số dư tài khoản; Mức trọng yếu chưa được sử dụng trong việc xác định cỡ mẫu khi kiểm tra chi tiết.

Thứ hai, không thực hiện đầy đủ thủ tục gửi thư xác nhận công nợ với khách hàng và thư xác nhận ngân hàng; thủ tục kiểm toán hàng tồn kho không đầy đủ; không đánh giá đầy đủ các khoản đầu tư liên doanh, liên kết, đầu tư dài hạn khác.

Thứ ba, các DNKiT không thực hiện đầy đủ các thủ tục thu thập bằng chứng của các bên liên quan, không đánh giá đầy đủ về giao dịch với các bên liên quan; hồ sơ kiểm toán không lưu biên bản chứng kiến kiểm kê tài sản, không trình bày các thông tin về kiểm kê công trình dở dang.

Thứ tư, không yêu cầu khách hàng thuyết minh đầy đủ BCTC và không phát hành đầy đủ thư quản lý theo quy định.

Thứ năm, UBCKNN cho biết một số báo cáo kiểm toán ngoại trừ chưa lượng hóa và đánh giá ảnh hưởng của vấn đề ngoại trừ đến các chỉ tiêu trên BCTC, vấn đề ngoại trừ không kiểm kê của năm trước nhưng không nêu ảnh hưởng đến các khoản mục trên báo cáo kết quả kinh doanh năm nay; một số báo cáo kiểm toán có ý kiến kiểm toán chưa phù hợp.

4. Các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác KSCLKT của UBCKNN

Trên cơ sở đưa ra một số các phân tích về thực trạng cũng như chỉ ra những ưu và nhược điểm trong công tác KCSLKT của UBCKNN hiện nay, tác giả bài viết xin mạnh dạn đưa ra một vài giải pháp hoàn thiện như sau:

Thứ nhất, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động KSCLKT của UBCKNN. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về kế toán, kiểm toán, thị trường tài chính, chứng khoán theo hướng tạo lập cơ sở pháp lý cho UBCKNN vị thế độc lập hơn, có đầy đủ quyền lực, các nguồn lực cần thiết và năng lực để thực hiện các chức năng quản lý, giám sát chất lượng dịch vụ kiểm toán của DNKiT được chấp thuận kiểm toán cho các đơn vị có lợi ích công chúng thuộc lĩnh vực chứng khoán.

Thứ hai, UBCKNN cần tiếp tục đề xuất với Bộ Tài chính các quy định pháp lý chặt chẽ quy định về điều kiện các DNKiT đủ tiêu chuẩn điều kiện để tham gia kiểm toán đơn vị có lợi ích công chúng thuộc lĩnh vực chứng khoán, quy định về kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán, quy định về công bố thông tin báo cáo tài chính của công ty đại chúng trên TTCK.

Thứ ba, UBCKNN cần xây dựng các tiêu chí đánh giá chất lượng cụ thể từng cuộc kiểm toán và các quy tắc ứng xử của kiểm toán viên độc lập.

Đối với chất lượng của dịch vụ kiểm toán nếu đi sâu vào kiểm tra kỹ thuật thì về cơ bản mấu chốt của vấn đề đó chính là KSCL của cuộc kiểm toán và KSCL đạo đức của kiểm toán viên. Chính vì vậy, thiết nghĩ UBCKNN cần phải đưa ra những quy định hướng dẫn cụ thể và chi tiết đối với việc chấm điểm từng tiêu chí đánh giá, sau đó căn cứ vào thang điểm tổng quát trên để chia cuộc kiểm toán thành các mức: tốt, khá, trung bình, không đạt yêu cầu. Bên cạnh đó, UBCKNN cũng cần sớm nghiên cứu và đưa ra các hướng dẫn cụ thể hơn nữa về quy tắc ứng xử của KiTV độc lập như ứng xử trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm toán, ứng xử trong mối quan hệ với khách hàng, ứng xử trong nội bộ DNKiT, ứng xử với báo chí truyền thông… để góp phần cùng với Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp nâng cao hơn nữa vai trò kiểm soát và tự kiểm soát đối với đạo đức nghề nghiệp của những người thực hiện công tác kiểm toán.

Thứ tư, kiện toàn đội ngũ kiểm tra, giám sát có năng lực, trình độ làm việc chuyên trách.

Nhân lực tham gia đoàn kiểm tra do UBCKNN chủ trì phối hợp với Cục Quản lý, Giám sát Kế toán, Kiểm toán - Bộ Tài chính, VACPA phần lớn là cán bộ kiêm nhiệm, không có chứng chỉ CPA và ít có thời gian thực tế hành nghề. Do vậy, việc kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán hàng năm cần huy động các KiTV đang làm việc tại các DNKiT, điều này hạn chế tính chủ động trong công tác tổ chức kiểm tra chất lượng dịch vụ kiểm toán. Vì vậy, UBCKNN cần thành lập một đội ngũ nhân sự có trình độ chuyên môn, chuyên trách để thực hiện công tác kiểm tra, giám sát CLKT đảm bảo hoạt động thường xuyên và có hiệu quả. Đồng thời, bộ phận này sẽ chịu trách nhiệm xem xét những bằng chứng về việc khắc phục những yếu kém của DNKiT được phát hiện, có quyền công bố cho công chúng nếu trong vòng 12 tháng kể từ ngày báo cáo kết quả kiểm tra mà DNKiT không đưa ra bằng chứng về việc khắc phục các yếu kém này.

Thứ năm, ban hành, sửa đổi các quy định, chế tài xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực KSCLKT theo hướng tăng tính răn đe. Chế tài xử lý vi phạm về chất lượng kiểm toán đối với DN kiểm toán đã được quy định cụ thể tại Thông tư số 157/2014/TT-BTC ngày 23/10/2014 của Bộ Tài chính. Theo đó, DN kiểm toán có sai phạm nghiêm trọng về chuyên môn hoặc vi phạm chuẩn mực nghề nghiệp sẽ bị đình chỉ kinh doanh dịch vụ kiểm toán. Tuy nhiên, đối với KiTV có sai phạm về chất lượng dịch vụ kiểm toán thì sẽ bị xử phạt theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Đây là vấn đề bất cập cần xem xét, rà soát để có những quy định sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Thiết nghĩ, để tăng cường trách nhiệm của DNKiT cũng như của KiTV với cuộc kiểm toán, UBCKNN nên tham mưu, đề xuất với Bộ Tài chính có những quy định cụ thể để họ gắn trách nhiệm có hạn định đủ dài với báo cáo kiểm toán. 

Thứ sáu, tăng cường phối hợp giữa UBCKNN với VACPA và các DNKiT trong việc đào tạo, bồi dưỡng nhận thức, kiến thức, kỹ năng cho các KiTV, kiểm tra viên và nhà đầu tư về các văn bản pháp luật mới liên quan đến lĩnh vực kế toán, kiểm toán, tài chính, chứng khoán, phục vụ cho việc giám sát hoạt động tài chính của công ty đại chúng.

5. Kết luận

Trên đây là một số phân tích về thực trạng công tác KSCLKT được UBCKNN thực hiện trong 4 năm qua và một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa vị thế và uy tín của UBCKNN trong tất cả các hoạt động nói chung và hoạt động KSCLKT cho các đơn vị có lợi ích công chúng thuộc lĩnh vực chứng khoán nói riêng.  

Hy vọng, UBCKNN sẽ sớm có những cải cách, những kế hoạch hành động, những đổi mới trong hoạt động, nhằm góp phần nâng cao hơn nữa uy tín của ngành Kiểm toán độc lập, đáp ứng yêu cầu của xã hội trong bối cảnh hội nhập phát triển sâu rộng như hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. The Center for Audit Quality. (2012). Guide to Inspections. USA: American Public Company Accounting Oversight Board.
  2. Quốc hội (2011). Luật KTĐL số 67/2011/QH12.
  3. Thông tư số 157/2014/TT-BTC ngày 23/10/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
  4. Hà Thị Ngọc Hà (2012), Mô hình kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Kiểm toán số 2/2012.
  5. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm tra chất lượng dịch vụ kiểm toán các năm 2017, 2018, 2019, 2020.

CONTROLLING AUDIT QUALITY OF PUBLIC

 INTEREST ENTITIES IN THE SECURITIES SECTOR:

 INTERNATIONAL EXPERIENCE AND LESSONS FOR VIETNAM

• Ph.D's student, Master. PHAM HUY HUNG

Faculty of Environmental and Natural Resources Economics

Hanoi University of Natural Resources and Environment

ABSTRACT:

Controlling quality of audits which are conducted at public interest entities in the securities sector is always a top concern of not only auditing firms themselves but also the state management agencies, especially the State Securities Commission (SSC). This paper analyzes some important issues relating to the State Securities Commissions quality management of independent audits. These issues include the supervision and the complement of audit quality at public interest entities in Vietnam in the current period.

Keywords: quality control, quality of audits, State Securities Commission

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 14, tháng 6 năm 2021]