Mỹ, Italy và Brazil là 3 thị trường xuất khẩu hàng xơ, sợi dệt của Việt Nam có tốc độ tăng mạnh nhất về lượng

Theo số liệu thống kê từ TCHQ Việt Nam, tháng 5/2018, xuất khẩu hàng xơ, sợi dệt của Việt Nam, tăng 22,6% về lượng và tăng 23,4% về trị giá so với tháng 4/2018, đạt lần lượt 140,2 nghìn tấn, trị giá 3
Hàng xơ, sợi dệt của Việt Nam đã xuất khẩu trên 19 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó Trung Quốc (đại lục) là thị trường chủ lực bởi có vị trí địa lý thuận lợi trong việc giao thương hàng hóa, chiếm 51,7% về lượng, đạt 308,2 nghìn tấn, trị giá 872,3 triệu USD, tăng 9,58% về lượng và tăng 13,79% về trị giá, giá xuất bình quân đạt 2830,29 USD/tấn, tăng 3,84% so với cùng kỳ.
Đứng thứ hai là thị trường Hàn Quốc đạt 67,8 nghìn tấn, trị giá 169,9 triệu USD, tăng 18,76% về lượng và 23,72% trị giá, giá xuất bình quân đạt 2502,82 USD/tấn, tăng 4,18%. Kế đến là thị trường Thổ Nhĩ Kỳ, tăng 52,05% về lượng và 63,16% trị giá, đạt tương ứng 32,6 nghìn tấn; 80,9 triệu USD; giá xuất bình quân 2483,87 USD/tấn.
Nhìn chung, 5 tháng 2018, xuất khẩu hàng xơ, sợi dệt sang các thị trường đều có tốc độ tăng trưởng chiếm tới 80% và ngược lại thị trường với lượng xuất giảm chỉ chiếm 20%.
Đặc biệt, xuất khẩu sang thị trường Mỹ, Italy và Brazil – đây là ba thị trường có tốc độ tăng mạnh nhất về lượng mặc dù giá xuất bình quân đều sụt giảm. Mỹ là thị trường có tốc độ tăng vượt trội, tăng 169,38% về lượng và tăng 134,54% về trị giá, tuy chỉ xuất 14,1 nghìn tấn, kim ngạch 17,6 triệu USD, giá xuất bình quân đạt 1248,41 USD/tấn, giảm 12,93% so với cùng kỳ. Thứ hai là Italy đạt 1,1 nghìn tấn, trị giá 5,4 triệu USD, giá xuất bình quân 4701,92 USD/tấn, tăng 88,23% về lượng, 31,45% trị giá nhưng giảm 30,16% về giá so với cùng kỳ. Kế đến là Braxin, tăng 64,34% về lượng, 41,1% trị giá đạt tương ứng 16,9 nghìn tấn 40,2 triệu USD, giá xuất bình quân đạt 2370,88 USD/tấn, giảm 14,14%.
Bên cạnh những thị trường có tốc độ tăng mạnh, thì xuất sang thị trường Anh và Hongkong (Trung Quốc) giảm mạnh, giảm lần lượt 41,77%; 27,86% với 4,4 nghìn tấn; 8,5 nghìn tấn, tuy nhiên giá xuất bình quân sang hai thị trường này lại tăng 24,11% đối với thị trường Anh đạt 1075,80 USD/tấn; tăng 0,2% thị trường Hongkong (Trung Quốc) đạt 3624,07 USD/tấn.