Nâng cao hiệu quả dịch vụ pháp lý của luật sư

ThS. Võ Anh Phúc - ThS. Vũ Thị Thanh Huyền (Khoa Quản trị - Kinh tế Quốc tế, Trường Đại học Lạc Hồng)

TÓM TẮT:

Trong nền kinh tế ngày càng phát triển, đặc biệt là trong bối cảnh sau đại dịch Covid-19 đang hoành hành, sẽ có rất nhiều tổ chức kinh doanh cần đến sự trợ giúp pháp luật để giảm thiểu những rủi ro trong hoạt động kinh doanh hoặc những vướng mắc pháp lý cần được giải đáp. Để đáp ứng nhu cầu đó, đòi hỏi cần phải có một bộ phận chuyên môn để tư vấn pháp luật và giải thích pháp luật. Từ đó cho thấy, dịch vụ pháp lý (DVPL) nói chung và DVPL của luật sư (LS) nói riêng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ để đưa ra các biện pháp đảm bảo tính chặt chẽ và an toàn cho các hoạt động sản xuất - kinh doanh của các công ty, các doanh nghiệp trong nước và có vốn nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Bài viết nghiên cứu một số bất cập về DVPL của LS và đưa ra những giải pháp phù hợp để phát triển DVPL của LS, cũng như hoàn thiện quy định pháp luật có liên quan đưa đến những hướng đi mới cho DVPL của LS. Từ đó, mở rộng hơn nữa thị trường dịch vụ pháp lý để tạo "sân chơi" hấp dẫn trong công cuộc hội nhập nền kinh tế quốc tế.

Từ khoá: dịch vụ pháp lý, dịch vụ pháp lý của luật sư, luật sư, Luật Luật sư, pháp luật.

1. Dịch vụ pháp lý của luật sư

1.1. Dịch vụ pháp lý

DVPL tại Việt Nam đã khởi động và phát triển từ những năm 90 của thế kỉ XX trở lại đây. Tuy nhiên cho đến nay, các nhà nghiên cứu và lập pháp chưa đưa ra một khái niệm cụ thể về dịch vụ pháp lý. Việc đưa ra khái niệm dịch vụ pháp lý gặp phải các vấn đề khó khăn vì tính học thuật và đặc điểm vô hình của lĩnh vực dịch vụ này.

Theo nghĩa rộng, dịch vụ pháp lý được định nghĩa là tổng thể các dịch vụ tư vấn pháp luật, dịch vụ đại diện pháp lý và mọi hoạt động liên quan đến hành chính tư pháp (thẩm phán, thư ký tòa án, công tố,...). Tại Việt Nam, dịch vụ pháp lý này được hiểu là bao gồm dịch vụ công, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cung cấp, vì mục đích hành chính, không mang yếu tố lợi nhuận, cạnh tranh.

Theo nghĩa hẹp, DVPL sẽ loại bỏ các yếu tố của chủ thể là Nhà nước, mà chỉ mang đặc trưng của lĩnh vực kinh doanh dịch vụ. Theo đó, dịch vụ pháp lý là những dịch vụ gắn liền với pháp luật do nhà nước ban hành, do các tổ chức, cá nhân hành nghề cung ứng dịch vụ pháp lý thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu về pháp lý của tổ chức, cá nhân trong xã hội. Việc hiểu DVPL theo nghĩa hẹp cũng phù hợp với xu hướng của các quốc gia trên thế giới và Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Tuy WTO không đưa ra một khái niệm cụ thể về dịch vụ pháp lý mà chỉ đưa ra một định nghĩa khái quát: “Dịch vụ pháp lý bao gồm các dịch vụ về tư vấn và đại diện cũng như các hoạt động khác liên quan tới tố tụng” (Hiệp định GATS). Tuy nhiên, hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý liên quan đến tố tụng đã bị loại khỏi phạm vi của GATS, vì hầu hết các quốc gia đều coi DVPL là loại hình dịch vụ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện (tức là dịch vụ được cung cấp không trên cơ sở thương mại cũng như không trên cơ sở cạnh tranh với một hoặc nhiều người đại diện), nên theo quy định của Điều I(3) (c) của GATS chỉ quy định về các dịch vụ đại diện và tư vấn trong một số ngành Luật và các thủ tục pháp lý.

1.2. Dịch vụ pháp lý của luật sư

Trước Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2012) ban hành và có hiệu lực, Pháp lệnh Luật sư quy định về người cung cấp dịch vụ pháp lý là chỉ những người được Bộ Tư pháp cấp chứng chỉ hành nghề luật sư và tham gia một tổ chức hành nghề luật sư (Văn phòng Luật sư hay Công ty luật hợp danh) thì mới được làm dịch vụ pháp lý.

Trước yêu cầu của tình hình mới, với quyết tâm gia nhập WTO, Nhà nước đã chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, vận hành theo cơ chế cung cầu hàng hóa dịch vụ, với việc ban hành Luật Luật sư năm 2006 (kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XI) và đến nay, Luật Luật sư đã được sửa đổi bổ sung năm 2012. Lịch sử hình thành của DVPL của LS gắn liền với sự pháp triển của DVPL, vận hành theo cơ chế cung cầu, mang yếu tố kinh doanh, lợi nhuận, cạnh tranh. Tuy được hình thành và gắn chặt với yêu cầu của pháp luật nhưng vẫn mang các nét đặc trưng của nền kinh tế thương mại dịch vụ.

Những văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực hành nghề LS gắn chặt và mật thiết với lĩnh vực dịch vụ pháp lý. Cụ thể:

“Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là khách hàng)”. (Điều 2 Luật Luật sư năm 2006).

Tại Điều 4, Điều 30 Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012 quy định như sau:

“DVPL của LS bao gồm tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các dịch vụ pháp lý khác”.

“Dịch vụ pháp lý khác của luật sư bao gồm giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc liên quan đến thủ tục hành chính; giúp đỡ về pháp luật trong trường hợp giải quyết khiếu nại; dịch thuật, xác nhận giấy tờ, các giao dịch và giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc khác theo quy định của pháp luật.

DVPL của LS mang tính đặc thù riêng biệt, bởi những yếu tố đặc quyền về pháp luật, gắn liền với pháp luật và việc thực thi pháp luật, có tác động quan trọng đến tình trạng kinh tế và ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của những người sử dụng dịch vụ cũng như hiệu quả quản lý nhà nước. Nên không phải chủ thể nào cũng được tham gia vào việc cung ứng DVPL mà phải đáp ứng các điều kiện chặt chẽ của pháp luật, vì bên cung ứng DVPL phải là tổ chức hành nghề có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. Đó là các điều kiện cơ bản như: phải được tổ chức dưới hình thức tổ chức hành nghề cung ứng DVPL hoặc người cung ứng DVPL hành nghề độc lập với tư cách cá nhân (gọi chung là tổ chức hành nghề); đã đăng ký hoạt động cung ứng DVPL và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc cấp giấy phép hoạt động DVPL; cung ứng loại DVPL đúng lĩnh vực và đúng loại hình DVPL của tổ chức hành nghề.

Bản chất của DVPL là hoạt động cung cấp các ý kiến pháp lý, giải pháp cho cá nhân, tổ chức khi có yêu cầu với mục đích thu lợi nhuận hoặc không thu lợi nhuận, nhưng mục đích cuối cùng của cung ứng DVPL là để nhận thù lao từ khách hàng, như vậy dịch vụ pháp lý mang tính kinh doanh. Ngoài ra, người cung cấp dịch vụ pháp lý sẽ là người đại diện cho khách hàng, thay mặt khách hàng trước các cơ quan, tổ chức, trước các đối tác của khách hàng để thực hiện các công việc có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của khách hàng nhưng phải đúng với quy định của pháp luật. Vì vậy, việc cung cấp dịch vụ pháp lý phải do các nhà chuyên nghiệp cung cấp bởi vì họ là những người am hiểu về pháp luật, biết vận dụng pháp luật và có kĩ năng nghề nghiệp hay nói cách khác chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý phải có chuyên môn về pháp luật. Đặc biệt, sản phẩm của loại dịch vụ pháp lý gắn bó mật thiết với pháp luật nên đòi hỏi không chỉ về trình độ chuyên môn nghiệp vụ mà còn đòi hỏi người cung cấp phải có đạo đức nghề nghiệp vì phải đòi hỏi khắt khe về uy tín, đạo đức mới tạo niềm tin cho khách hàng, đồng thời góp phần tích cực vào việc bảo vệ công lý, công bằng xã hội. Đây là tính đặc thù riêng biệt của DVPL của LS.

2. Vấn đề của dịch vụ pháp lý của luật sư

Thực tiễn hiện nay cho thấy vẫn còn những tranh luận về dịch vụ pháp lý bắt đầu xoay quanh vấn đề chủ thể được phép cung cấp dịch vụ pháp lý: Luật sư (độc quyền) hay cho phép mở rộng thêm bởi các chủ thể khác.

Một số lý giải cho quan điểm đồng ý mở rộng chủ thể tư vấn pháp lý:

Thứ nhất, về mặt pháp lý, Luật Luật sư quy định 4 nhóm hành nghề luật sư đó là tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và các ban tư vấn pháp luật khác. Hiến pháp năm 2013 chỉ rõ mọi người đều có quyền làm những gì pháp luật không cấm. Quan điểm trên cho rằng đối với hoạt động kinh doanh pháp luật, Luật Luật sư không có quy định những người không phải là LS không được tham gia các hoạt động tư vấn pháp lý.

Thứ hai, về nguyên tắc, nếu quan điểm phạm vi hành nghề của luật sư chỉ có luật sư mới được làm thì rất bó hẹp cách tiếp cận đến môi trường pháp lý của người dân và doanh nghiệp. Ví dụ tư vấn pháp luật là một khái niệm rất rộng thì tư vấn thuế, tư vấn thủ tục hành chính cũng là tư vấn pháp luật. Nếu điều này bắt buộc phải dùng luật sư thì đối tượng cung cấp dịch vụ này rất hạn chế, quyền tiếp cận dịch vụ của người dân rất hạn chế. Bên cạnh đó, trong phạm vi hành nghề mà luật sư được làm có đại diện ngoài tố tụng, nếu tất cả người đại diện đang được điều chỉnh bằng Luật Dân sự mà chỉ có luật sư được làm thì sẽ tạo nên một hệ lụy rất lớn.

Tuy nhiên bên cạnh đó, cũng có những quan điểm trái chiều:

Luật Luật sư năm 2006 quy định: “Dịch vụ pháp lý của LS bao gồm tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các dịch vụ pháp lý khác”. Tư vấn pháp luật là việc LS hướng dẫn, đưa ra ý kiến giúp khách hàng soạn thảo các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ. LS thực hiện tư vấn pháp luật trong tất cả lĩnh vực pháp luật” (khoản 1 Điều 28). Tại mục 3 điểm đ Nghị quyết số 65/2006 của Quốc hội về việc thi hành Luật Luật sư quy định: “Kể từ ngày Luật Luật sư có hiệu lực, trong thời hạn sáu tháng, cá nhân, tổ chức đang kinh doanh dịch vụ pháp lý theo quy định của Luật Doanh nghiệp (DN) năm 1999 mà tiếp tục kinh doanh dịch vụ pháp lý thì phải có đủ các điều kiện hành nghề LS và phải chuyển đổi hình thức tổ chức hành nghề theo quy định của luật này; nếu không chuyển đổi thì phải chấm dứt hoạt động”.

Mặc khác, việc cung cấp DVPL phải do những nhà chuyên nghiệp thực hiện bởi chỉ những người đủ điều kiện cũng như am hiểu pháp luật, biết vận dụng pháp luật, có kỹ năng nghề nghiệp mới có đủ kinh nghiệm, khả năng tư vấn pháp luật. Việc cung ứng dịch vụ pháp lý phải đáp ứng các điều kiện chặt chẽ của pháp luật có đủ các điều kiện cơ bản như: Phải được tổ chức dưới hình thức tổ chức hành nghề cung ứng DVPL hoặc người cung ứng DVPL hành nghề độc lập với tư cách cá nhân (gọi chung là tổ chức hành nghề); đã đăng ký hoạt động cung ứng DVPL và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc cấp giấy phép hoạt động DVPL; cung ứng loại DVPL đúng lĩnh vực và đúng loại hình DVPL của tổ chức hành nghề.

Tóm lại, từ những tranh cãi trong việc hành nghề dịch vụ pháp lý cũng như đăng ký kinh doanh dịch vụ pháp lý cho thấy những quy định về dịch vụ pháp lý vẫn chưa chặt chẽ, việc thống nhất ý kiến và đưa ra những văn bản hướng dẫn luật vẫn chưa rõ ràng đã dẫn tới những cuộc tranh cãi cũng như gây ra không ít những khó khăn trong hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý, làm mất lòng tin cho những người sử dụng dịch vụ pháp lý. Chúng ta cần có một sự thống nhất về mặt lý luận chung để thực hiện thống nhất một trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh ngành, nghề hoạt động tư vấn pháp luật, dịch vụ pháp lý phù hợp với các quy định pháp luật.

3. Đề xuất hoàn thiện

Hiện nay, dịch vụ pháp lý ở Việt Nam đang được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật khác nhau, thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau, trong đó luật sư là chủ thể hành nghề luật chuyên nghiệp cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng. Vì vậy, việc tranh luận về hoạt động đăng ký kinh doanh và hành nghề dịch vụ pháp lý là điều không thể tránh khỏi. Để hướng tới một môi trường cung cấp DVPL một cách chuyên nghiệp cần quy định và hướng dẫn chi tiết, đồng bộ và thống nhất những quan điểm lý luận chung. Trước hết, cần quy định rõ ràng chủ thể nào được cung cấp DVPL, được đăng ký kinh doanh DVPL cho phù hợp với thực tiễn cũng như có thể cạnh tranh khi tham gia các tranh chấp thương mại quốc tế, tăng cơ hội và khả năng cung cấp dịch vụ pháp lý trên thị trường thế giới.

 Trên thế giới, việc cung cấp dịch vụ pháp lý phải do các những người có nghiệp vụ chuyên môn cao, bởi vì họ là những người am hiểu pháp luật, biết vận dụng pháp luật và có kỹ năng nghề nghiệp. Đặc biệt, trong lĩnh vực tố tụng tư pháp, việc thực hiện các dịch vụ pháp lý phải là LS. Một số nước còn quy định rõ trong Luật về sự độc quyền tham gia tố tụng của LS trước Tòa án.

Theo quy định của Luật Luật sư, LS là một nghề đòi hỏi rất cao về chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp. Muốn trở thành luật sư phải có bằng cử nhân Luật, qua đào tạo nghề, qua thời gian tập sự, thi đỗ kỳ thi hết tập sự mới được cấp Chứng chỉ hành nghề LS và mới có quyền hành nghề LS. Trong khi đó, những người khác, pháp luật không đòi hỏi ở họ điều kiện về chuyên môn, nghiệp vụ cũng như kỹ năng nghề nghiệp mà vẫn được tham gia tố tụng, thực hiện dịch vụ pháp lý. Về lâu dài, cần xác định rõ, những người đủ tiêu chuẩn để cung cấp dịch vụ pháp lý chỉ có thể là LS hoặc có trình độ tương đương LS. Bởi lẽ, cũng như một số nghề nghiệp đặc thù, người hành nghề dịch vụ pháp lý phải là người có trình độ chuyên môn pháp luật vững vàng, có nghiệp vụ và kinh nghiệm trong hoạt động nghề nghiệp, có những đòi hỏi khắt khe về uy tín, đạo đức mới tạo được niềm tin cho khách hàng, đồng thời, chính họ còn phải góp phần tích cực vào việc bảo vệ và tăng cường pháp chế. Cho nên, cần thiết phải tiêu chuẩn hóa và không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ của đội ngũ luật sư - người cung cấp dịch vụ pháp lý chuyên nghiệp, đảm bảo phúc đáp yêu cầu của đời sống xã hội, xây dựng kế hoạch và chương trình cụ thể, hiệu quả, khả thi để đào tạo được đội ngũ luật sư có phẩm chất chính trị, đạo đức, có đủ trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, hợp tác và hội nhập quốc tế.

 Đầu tiên, cần phân định các hoạt động cụ thể trong nhóm ngành cung cấp dịch vụ pháp lý. Hoạt động tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa trong vụ án hình sự thì người đó bắt buộc phải đáp ứng các điều kiện hành nghề luật sư theo quy định của Luật Luật sư, như phải có Chứng chỉ hành nghề Luật sư và gia nhập một Đoàn Luật sư. Còn đối với hoạt động tư vấn pháp luật thì phải do những người am hiểu pháp luật có đủ điều kiện, trình độ và kinh nghiệm như là LS hoặc có thể có trình độ tương đương LS để hành nghề. Hoạt động dịch vụ pháp lý khác như giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc liên quan đến thủ tục hành chính; giúp đỡ về pháp luật trong trường hợp giải quyết khiếu nại; dịch thuật, xác nhận giấy tờ, các giao dịch và giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc khác theo quy định của pháp luật thì chỉ cần là người đó đã tốt nghiệp cử nhân Luật.

 Tiếp đến, cần quy định và hướng dẫn cụ thể hơn những quy định pháp luật về việc đăng ký kinh doanh dịch vụ pháp lý và cần có cơ chế quản lý chặt chẽ việc kinh doanh dịch vụ pháp lý, vì đây loại hình kinh doanh đặc thù, có tác động đến sự ổn định của xã hội, tình hình trật tự, an toàn xã hội và quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Do đó, Nhà nước phải quản lý chặt chẽ, việc đăng ký kinh doanh ngành, nghề tư vấn pháp luật, dịch vụ pháp lý phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật.

Cuối cùng, để mở rộng cũng như nâng cao chất lượng DVPL, mở rộng việc kinh doanh DVPL cần đào tạo một cách song song việc LS có chuyên môn nghiệp vụ trong một số lĩnh vực cụ thể. Ví dụ một LS có thể học thêm một khóa chuyên sâu về lĩnh vực kinh doanh bất động sản, đầu tư, xây dựng,… để có những kiến thức chuyên sâu trong các lĩnh vực khác nhau, từ đó tư vấn cho khách hàng một cách chuyên nghiệp đối với lĩnh vực mà khách hàng quan tâm. Nếu đáp ứng được điều này thì không những LS vừa am hiểu được pháp luật, vừa có kiến thức chuyên môn liên quan tới những lĩnh vực khác, thì chất lượng DVPL của LS cung cấp cho khách hàng sẽ ngày càng hoàn thiện hơn. Hoặc có thể những người là một trong những chuyên gia trong lĩnh vực khác có thể học thêm một văn bằng về Luật, hoặc có thể học khóa Luật sư. Nếu như chúng ta biết dành thời gian cho việc trao dồi kiến thức, kinh nghiệm thì trong tương lai, chất lượng cung cấp DVPL của LS sẽ ngày càng phát huy được vai trò của mình, đáp ứng được nhu cầu xã hội hiện nay.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Quốc hội (2015). Bộ luật Dân sự năm 2015.
  2. Quốc hội (2020). Luật Doanh nghiệp năm 2020.
  3. Quốc hội (2006,2012). Luật Luật sư năm 2006 được sửa đổi, bổ sung năm 2012.
  4. Chính phủ (2011). Quyết định số 1072/QĐ - TTg ngày 05/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển nghề Luật sư đến năm 2020.
  5. Bộ Tư pháp (2011). Thông tư số 17/2011/TT-BTP hướng dẫn quy định của Luật sư, Nghị định hướng dẫn Luật Luật sư về tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư do Bộ Tư pháp ban hành.
  6. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2020). Công văn số 4750/BHĐT - ĐKKD của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 23/7/2020 về đăng kí kinh doanh ngành nghề tư vấn pháp luật, dịch vụ pháp lý.
  7. Nguyễn Văn Tuân (2019). Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam - Thực trạng và định hướng phát triển. NXB Lao động.
  8. Hoàng Thị Vịnh (2012). Về khái niệm dịch vụ pháp lý. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 1210.

 

Improving the effectiveness of legal aid services provided by lawyers

Master. VO ANH PHUC*1

Master. VU THI THANH HUYEN1

1Faculty of Administration and International Economics, Lac Hong University

*Supporting Information

ABSTRACT:

Along the economic development, especially in the post-COVID-19 era, many companies and organizations will need legal aid services to miminize risks in their businesses or to solve their legal problems. To meet that need, it requires a specialized unit to provide legal assistance. It shows that legal aid services in general and legal assistance from lawyers in particular play an important role in helping domestic as well as foreign companies and organizations solve their legal problems in Vietnam. This paper points ouut some shortcomings of legal aid services provided by lawyers in Vietnam. Based on the paper’s findings, some solutions are proposed to facilitate the development of legal aid services provided by lawyers and improve the effectiveness of related regulations. This paper is expected to further expand the market for legal aid services in Vietnam in the context of the country’s internatonal economic integration process.

Keywords: legal aid services, legal aid services provided by lawyers, lawyer, Law on Lawyers, law.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, 

Số 4, tháng 3 năm 2022]