TÓM TẮT:

Ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) là vấn đề cần giải quyết không chỉ dừng lại ở khuôn khổ một quốc gia, một khu vực hay một vùng lãnh thổ mà là trách nhiệm của tất cả các thành viên trong cộng đồng quốc tế. Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng, trước những cơ hội và thách thức mới khi Việt Nam tham gia vào Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVFTA) [1], yêu cầu nội luật hóa các cam kết về môi trường bắt buộc đối với hai Hiệp định này được đặt ra. Bài viết tập trung làm rõ những cam kết về môi trường qua CPTPP và EVFTA, từ đó đề xuất một số nội dung nhằm thực hiện thành công việc nội luật hóa các cam kết của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Từ khóa: biến đổi khí hậu, ứng phó biến đổi khí hậu, CPTPP, EVFTA.

1. Các quy định về bảo vệ môi trường trong CPTPP và EVFTA

Tính đến thời điểm hiện nay (tháng 1/2020), Việt Nam đã đàm phán, ký kết và thực thi 16 hiệp định thương mại tự do (FTA) với gần 60 đối tác. Việc tham gia các FTA đem lại nhiều cơ hội to lớn đối với Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, đồng thời cũng đặt ra những thách thức cần vượt qua, đặc biệt là trong việc sửa đổi và chuyển hoá các thể chế pháp luật trong nước để phù hợp hơn với xu hướng phát triển của cộng đồng quốc tế[2]. Điều này cần được lưu tâm đặc biệt hơn khi các FTA thế hệ mới như CPTPP và EVFTA không chỉ dừng lại ở vấn đề hợp tác trong thương mại - đầu tư mà còn trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (BVMT), ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH).

Trong 12 FTA mà Việt Nam đã ký kết trong thời gian 10 năm trở lại đây, có thể chia làm hai loại FTA thế hệ cũ và FTA thế hệ mới. Các FTA thế hệ cũ phần lớn tập trung vào các nghĩa vụ truyền thống như việc cắt giảm và xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan nhằm tiến tới việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do đối với hàng hóa và dịch vụ [3]. Nội dung liên quan đến các vấn đề môi trường mới chỉ được đề cập mang tính khái quát chung. Các FTA thế hệ mới có phạm vi rộng hơn, ngoài các cam kết về thương mại, dịch vụ và đầu tư còn bao gồm các nghĩa vụ mang tính pháp lý cho các lĩnh vực khác như môi trường, lao động, doanh nghiệp nhà nước, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ với các mức độ cam kết, ràng buộc khác nhau. Tiêu biểu, CPTPP và EVFTA với vai trò là hai FTA thế hệ mới, mang tính điển hình đã thể hiện rõ nét nỗ lực chung của các quốc gia thành viên cùng giải quyết những vấn đề về môi trường, BĐKH.

Cả hai Hiệp định CPTPP và EVFTA đều dành một chương riêng quy định về BVMT, phát triển bền vững, cụ thể là Chương 20 về Môi trường từ Điều 20.1 đến Điều 20.23 trong CPTPP và Chương 13 về Thương mại và phát triển bền vững của EVFTA từ Điều 13.1 đến Điều 13.17 [4], tập trung giải quyết 5 nội dung sau: (i) BĐKH, (ii) bảo vệ tầng ô-zôn, (iii) đánh giá tác động môi trường, (iv) đầu tư trong lĩnh vực môi trường và (v) giải quyết tranh chấp môi trường. Các yêu cầu về BVMT được hai Hiệp định cam kết ở mức độ ràng buộc cao nhằm thúc đẩy chính sách hỗ trợ lẫn nhau trong thương mại và môi trường.

CPTPP nhấn mạnh nghĩa vụ thực thi 3 điều ước quốc tế về môi trường [5]; cam kết chuyển đổi sang một nền kinh tế phát thải thấp và mau phục hồi [6]. EVFTA đặc biệt dành hẳn một điều khoản quy định về BĐKH [7] tuy nhiên, không tạo ra được những đột phá mới mà chỉ dừng lại ở việc tái khẳng định các cam kết được đưa ra trước đó trong các điều ước quốc tế (ĐƯQT) lớn về BĐKH mà các Bên đã là thành viên. Điểm sáng nhất của EVFTA là ghi nhận chi tiết, mạnh mẽ hơn tại khoản 2 của Điều 13 nghĩa vụ tham vấn và chia sẻ thông tin, kinh nghiệm về các bài học và thông lệ tốt nhất trong việc xây dựng, thực thi và vận hành các cơ chế định giá các-bon. Thúc đẩy thị trường các-bon trong nước và quốc tế, cũng như tăng cường tiết kiệm năng lượng, công nghệ khí thải thấp và năng lượng tái tạo. So với EVFTA, mức độ cam kết trong CPTPP cao hơn và nghiêm khắc hơn, gắn với cơ chế giải quyết tranh chấp có sử dụng chế tài [8]; trong khi đó, các tranh chấp về môi trường theo EVFTA được giải quyết theo các thủ tục và quy tắc trong các chương về phát triển bền vững và sẽ được quyết định bởi Hội đồng chuyên gia [9].

2. Đánh giá quá trình nội luật hóa quy định bảo vệ môi trường của EVFTA và CPTPP vào pháp luật bảo vệ môi trường của Việt Nam

Pháp luật Việt Nam quy định, nội dung chuyển hóa ĐƯQT vào pháp luật quốc gia được thực hiện với 2 hình thức: áp dụng trực tiếp và nội luật hóa. Để nội luật hóa ĐƯQT, có 3 phương thức thực hiện chủ yếu; (i) “một luật sửa đổi, bổ sung nhiều luật”, được áp dụng theo mô hình “cách mạng” trong chuyển hóa ĐƯQT; (ii) tiến hành sửa đổi, bổ sung, ban hành mới từng văn bản QPPL để thực thi ĐƯQT; (iii) sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản QPPL để dần tiến tới thực thi ĐƯQT. Tuy nhiên, Luật Điều ước quốc tế 2016 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 của Việt Nam hiện nay chưa có quy định cụ thể hình thức của văn bản chuyển hóa ĐƯQT. Việc này sẽ dẫn đến sự tùy tiện của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong quá trình nội luật hóa các ĐƯQT, đôi khi dẫn đến hiệu lực và hiệu quả thực thi các cam kết không cao nếu lựa chọn hình thức văn bản chưa phù hợp. Vì vậy, để nội luật hóa các cam kết trong CPTPP và EVFTA, Việt Nam cần chọn cách tiếp cận phù hợp để đảm bảo sự thống nhất và vận hành hiệu quả khung pháp lý quốc gia.

Vào ngày 12 tháng 11 năm 2018, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 72/2018/QH14 phê chuẩn Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương cùng các văn kiện liên quan và Nghị quyết 103/2020/QH14 ngày 8 tháng 6 năm 2020 phê chuẩn Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa một bên là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và một bên là Liên minh Châu Âu và các nước thành viên Liên minh Châu Âu. Hai Nghị quyết này nêu rõ việc cần thiết phải nghiên cứu, chỉnh sửa, bổ sung một số văn bản pháp luật để đảm bảo phù hợp, tương thích với cam kết của Việt Nam từ hai Hiệp định. Như vậy, chúng ta chọn cách thức nội luật hóa thứ hai là ban hành mới luật với những quy định mang tính cập nhật cao mà không thể hiện dưới hình thức Nghị định, Thông tư. Đây cũng là cách hữu hiệu nhất đối với bối cảnh tại Việt Nam, bởi lẽ vấn đề môi trường, ứng phó với BĐKH hiện nay là vấn đề mang tính chất toàn cầu, được chi phối không chỉ trong phạm vi hai Hiệp định này mà còn chịu chi phối bởi rất nhiều điều ước quốc tế khác với quy mô và ý nghĩa lớn hơn gấp nhiều lần. Việc lựa chọn ghi nhận các cam kết này vào trong văn bản luật là hợp lý.

Nhìn chung, các cam kết về môi trường, BĐKH trong hai hiệp định trên không có nội dung gì trái, xung đột hay mâu thuẫn với những nỗ lực của Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề về môi trường và ứng phó với BĐKH. Cụ thể, Luật Bảo vệ môi trường 2020 với 16 Chương, 171 Điều được Quốc hội khoá XIV thông qua tại kỳ họp thứ 10 và có hiệu lực thi hành từ 1/1/2022 với nhiều sửa đổi tiến bộ, cập nhật được xu hướng phát triển của pháp luật quốc tế về môi trường trên thế giới và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam. Lần đầu tiên trong các phiên bản của Luật BVMT, nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt xem bảo vệ môi trường là “điều kiện, nền tảng, yếu tố trung tâm, tiên quyết” cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững và yêu cầu hoạt động BVMT “phải gắn kết với phát triển kinh tế”, “được xem xét, đánh giá trong quá trình thực hiện các hoạt động phát triển” [10]. Điều này tương thích với định hướng trong CPTPP và EVFTA về một nền kinh tế ít phát thải, cũng như xem mục tiêu BVMT song hành với mục tiêu phát triển kinh tế như Lời mở đầu mà 2 hiệp định này đã nhấn mạnh.

Kế thừa từ Luật BVMT 2014, phiên bản năm 2020 cũng xây dựng một chương riêng về ứng phó với BĐKH (Chương VII). Trong đó, Điều 91 nêu rõ nghĩa vụ giảm nhẹ phát thải khí nhà kính cũng như yêu cầu thực hiện biện pháp kiểm soát việc sản xuất, tiêu thụ và mua bán những chất làm suy giảm hoặc biến đổi tầng ô-zôn tại Điều 92, tương thích với Điều 20.5.1 CPTPP và khoản 2 Điều 13.6 EVFTA. Đặc biệt, để thực hiện yêu cầu thúc đẩy thị trường các-bon với cơ chế định giá hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế theo yêu cầu tại Điều 13.6 EVFTA, Luật BVMT đã bổ sung quy định về vấn đề này tại Điều 139. Ngoài việc quy định các biện pháp mang tính chất hành chính để kiểm soát lượng khí các-bon phát thải như xác định hạn ngạch lượng phát thải trong chiến lược quốc gia, theo dõi kết quả kiểm kê và xây dựng lộ trình, phương thức giảm nhẹ phát thải khí nhà kính phù hợp với điều kiện của đất nước và cam kết quốc tế [11], khoản 4 điều này cũng quy định cách thức tham gia thị trường các-bon như trao đổi, đấu giá, vay mượn, nộp trả, chuyển giao hạn ngạch, tín chỉ các-bon; Thực hiện các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon trong nước, quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Mặc dù vậy, các quy định trên vẫn chưa thực sự phản ánh yêu cầu xây dựng thị trường các-bon “với cơ chế định giá hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế” như CPTPP và EVFTA yêu cầu, vì không nêu được các nguyên tắc chủ đạo trong việc xây dựng và phát triển thị trường này cũng như thể hiện được nguồn gốc của các nguyên tắc và mô hình thị trường các-bon mà Việt Nam đang hướng tới là tương thích với xu hướng quốc tế. Cơ chế định giá các-bon sẽ được hình thành với sự tham gia của những chủ thể nào, dựa trên những nguyên lý cơ bản gì cũng không được nêu rõ. Dù có thể có quan điểm cho rằng Nghị định hay Thông tư sẽ đảm nhiệm vai trò này nhưng những quy định mang tính chất nền tảng không nên chỉ được phản ánh trong văn bản hướng dẫn, mà cần thiết phải được quy định trong chính Luật BVMT. Luật này vốn mang tính chất bắt buộc phổ quát và hiệu lực pháp lý cao, thể hiện sự định hướng rõ ràng cho các văn bản hướng dẫn thi hành chi tiết hơn sau này và tránh sự mâu thuẫn, xung đột giữa những quy định áp dụng cho cùng một vấn đề vốn thường xuyên xảy ra ở những văn bản quy phạm pháp luật cấp dưới.

Khi xây dựng các nguyên tắc, quy định mang tính chất nền tảng cho việc xây dựng cơ chế thị trường, định giá các-bon cũng cần lưu ý không thể tách rời với việc thực hiện đầy đủ các cam kết của Việt Nam trong UNFCCC, Nghị định thư Kyoto và đặc biệt là Thỏa thuận Paris khi từ năm 2021, Việt Nam cũng như nhiều quốc gia đang phát triển sẽ chuyển ứng phó BĐKH từ “tự nguyện” sang “bắt buộc” có sự kiểm tra và giám sát quốc tế với các chỉ tiêu cụ thể trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định của Việt Nam (INDC), cập nhật năm 2020.

3. Đề xuất nhằm nội luật hóa thành công các cam kết về môi trường, ứng phó BĐKH trong CPTPP và EVFTA

Quá trình nội luật hóa các cam kết về môi trường từ hai Hiệp định trên mang ý nghĩa tích cực trong việc góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia về môi trường, ứng phó hiệu quả hơn với BĐKH. Để thực hiện thành công quá trình này, đầu tiên cần có sự liên kết, phối hợp giữa các ngành. Do vậy, cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản nội luật hóa cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan khác có liên quan cũng như các cơ quan chuyên trách về môi trường, ứng phó BĐKH như Tổng cục Môi trường, Ủy ban quốc gia về BĐKH, Hội đồng tư vấn cho Ủy ban quốc gia về BĐKH, Cục BĐKH thuộc Bộ TN&MT để có thể xác định lộ trình và nội dung phù hợp, đảm bảo đúng tiến độ, đúng thẩm quyền xây dựng và thực thi.

Về nội dung, cần tập trung vào giải quyết vấn đề bảo vệ tầng ô-zôn và chuyển đổi sang nền kinh tế ít phát thải, mau phục hồi. Việt Nam cần duy trì biện pháp được liệt kê tại Phụ lục 20-A CPTPP hoặc/và thực thi nghĩa vụ của mình trong khuôn khổ Nghị định thư Montreal hoặc bất kỳ biện pháp nào tương đương hoặc cao hơn. EVFTA cũng yêu cầu các bên thực hiện các cam kết trong UNFCCC, Hiệp định Paris và tích cực hợp tác để thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế ít phát thải, thích ứng với khí hậu, phù hợp với Hiệp định [12]. Quá trình nội luật hóa theo đó cần lưu ý 4 vấn đề chủ yếu sau:

Thứ nhất, thực hiện thành công hơn nữa “Các hoạt động giảm nhẹ khí nhà kính phù hợp với điều kiện quốc gia” (Nationally Appropriate Mitigation Action) - NAMA, được hiểu như là một công cụ hiệu quả giúp các nước đang phát triển có thể thực hiện các biện pháp giảm nhẹ khí nhà kính phù hợp với điều kiện quốc gia và phát triển bền vững với sự hỗ trợ về kĩ thuật, tài chính và tăng cường năng lực từ các nước phát triển nhằm đạt được một lượng giảm phát thải tương đối vào năm 2020 so với  kịch bản phát triển thông thường (Business As Usual - BAU).  Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật BVMT 2020 cũng cần thiết làm rõ khái niệm về khí nhà kính, nội dung giảm nhẹ phát thải khí nhà kính phù hợp với các quy định quốc tế [13].

Thứ hai, gắn việc nội luật hóa các cam kết về môi trường, ứng phó BĐKH với việc hình thành và thực hiện thành công Sáng kiến Chương trình PMR [14] với vai trò là một trong những công cụ quốc tế hữu hiệu để tạo động lực cho tất cả các bên tham gia các hành động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính từ các hành động tự nguyện như NAMA, chuyển thành cơ chế bắt buộc khi các chính sách thuế, phí, cơ chế hạn ngạch phát thải, các điều kiện về nhãn các-bon, dấu vết các-bon sẽ hình thành ở nhiều nơi trên thế giới.

Thứ ba, tiếp tục thực hiện hiệu quả chương trình Giảm khí phát thải từ mất và suy thoái rừng (REDD) với mục tiêu là phát triển các cơ chế để chi trả cho các quốc gia đang phát triển nhằm giảm lượng phát thải từ mất và suy thoái rừng (tương ứng với một mức tham chiếu) và thực hiện các hoạt động chuẩn bị nhằm giúp các quốc gia tham gia vào các cơ chế REDD+ (Angelsen 2008) [15]. Trước yêu cầu nội luật hóa các cam kết về môi trường trong CPTPP và EVFTA, việc hoàn thiện khung pháp lý về REDD+ và đảm bảo công bằng trong BĐKH và REDD+ rất cần được quan tâm [16].

Thứ tư, xây dựng thành công thị trường mua bán các-bon trong nước và tham gia vào thị trường các-bon thế giới. Theo đó, Chính phủ giao cho các Bộ, ngành có liên quan nghiên cứu đề xuất xây dựng và áp dụng bộ chỉ số môi trường rừng, chỉ số CO2 và thực hiện nguyên tắc địa phương nào phát triển nhiều công nghiệp, thải nhiều khí CO2  thì phải mua chỉ số các-bon. Hướng đến ban hành các quy định pháp luật cho việc xây dựng hệ thống kiểm kê KNK, hệ thống giám sát phát thải khí nhà kính và ước tính phát thải ở cấp quốc gia, vùng, ngành, tiểu ngành, cơ sở sản xuất một cách minh bạch, chính xác theo yêu cầu và tiêu chuẩn quốc tế; hoàn thiện bộ tiêu chí xác định hạn mức phát thải KNK đối với từng ngành, tiểu ngành, cơ sở sản xuất.

Ngoài ra, để thực hiện được nội luật hóa các nội dung cam kết về môi trường, ứng phó với BĐKH trong CPTPP và EVFTA, Việt Nam cũng cần nâng cao hơn nữa công tác rà soát các văn bản quy phạm pháp luật. Việc rà soát hệ thống pháp luật về BVMT, ứng phó với BĐKH sẽ nhằm góp phần phát hiện những quy định pháp luật còn mâu thuẫn, trái pháp luật, chồng chéo, chưa đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả, tính thống nhất và việc thực hiện hiệu quả các nội dung của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:

[1] Hiệp định EVFTA có hiệu lực vào ngày 01 tháng 8 năm 2020.

[2]https://tapchicongsan.org.vn/kinh-te/-/2018/815809/trien-khai-cac-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-the-he-moi-trong-giai-doan-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-sau-rong-va-toan-dien.aspx.

[3] 8 FTA “thế hệ cũ”, bao gồm: FTA Việt Nam - Nhật Bản, Việt Nam - Chi Lê, Cộng đồng kinh tế ASEAN - AEC, ASEAN - Australia – New Zealand, ASEAN - Hàn Quốc, ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Ấn Độ, ASEAN - Nhật Bản.

[4] Kettunen et al. (2020) “An EU Green Deal for trade policy and the environment: Aligning trade with climate and sustainable development objectives”, IEEP Brussels / London. Page 19.

[5] Nghị định thư MONTREAL về các chất làm suy giảm tầng ô-zôn, Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm từ tàu biển (Công ước MARPOL) và Công ước quốc tế về buôn bán các loài động thực vật hoang dã đang bị đe dọa (Công ước CITES)

[6] Điều 20.15, Hiệp định CPTPP.

[7] Điều 13.6, Hiệp định EVFTA.

[8] http://www.monre.gov.vn/Pages/hoi-nhap-quoc-te-ve-moi-truong-trong-cac-fta.aspx.

[9] Trần Việt Dũng (chủ biên) (2020), “Các quy định về Môi trường trong EVFTA và CPTPP – Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật môi trường”, NXB Hồng Đức, Tr.30.

[10] Khoản 2 Điều 4 Luật BVMT 2020.

[11] Khoản 3 Điều 139 Luật BVMT 2020.

[12] Điều 13.6, Hiệp định EVFTA.

[13] Trần Việt Dũng (chủ biên) (2020), “Các quy định về Môi trường trong EVFTA và CPTPP – Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật môi trường”, NXB Hồng Đức, Tr.136.

[14] Chương trình PMR cam kết hỗ trợ các Chính phủ thiết kế và thực thi chính sách về định giá carbon bao gồm hệ thống mua bán carbon (EST – Emission Trading Scheme), thuế cacbon (carbon taxes), cơ chế tạo tín chỉ (credicting) và cơ chế bù trừ (offset) nhằm thực hiện hiệu quả các chương trình mới về BĐKH sau COP13 và COP15, cụ thể là Chiến lược phát thải thải thấp (LEDS – Low Emission Developemt Strategy), Dự kiến Đóng góp quốc gia tự quyết định (INDCs – Intended National Determined Contributions) nay là NDCs và sẽ được tất cả Bên tham gia Công ước khí hậu cùng thực hiện từ 2021 trở đi.

[15] Phạm Thu Thủy (2011), “Vấn đề chính sách REDD+ được thể hiện trong thông tin đại chúng Nghiên cứu điểm tại Việt Nam”, Báo cáo nghiên cứu sớ 83. Tr.2.

[16] USAID (2014), “Công bằng trong biến đổi khí hậu và REDD+” Sổ tay hướng dẫn cho thúc đẩy viên cơ sở. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Kettunen et al. (2020) “An EU Green Deal for trade policy and the environment: Aligning trade with climate and sustainable development objectives”, IEEP Brussels/London.
  2. Phạm Thu Thủy (2011), “Vấn đề chính sách REDD+ được thể hiện trong thông tin đại chúng Nghiên cứu điểm tại Việt Nam”, Báo cáo nghiên cứu số 83.
  3. Trần Việt Dũng (chủ biên) (2020), “Các quy định về Môi trường trong EVFTA và CPTPP - Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật môi trường”, NXB Hồng Đức.
  4. USAID (2014), “Công bằng trong BĐKH và REDD+”-,Sổ tay hướng dẫn cho thúc đẩy viên cơ sở.
  5. Bùi Thanh Sơn (2020), Triển khai các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và toàn diện, Tạp chí Cộng sản, https://tapchicongsan.org.vn/kinh-te/-/2018/815809/trien-khai-cac-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-the-he-moi-trong-giai-doan-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-sau-rong-va-toan-dien.aspx

 Incorporating environment protection and climate change response commitments from cptpp and evfta Into vietnamese laws

Master. Nguyen Lam Tram Anh

Faculty of Law, Sai Gon University 

ABTRACT:

Responding to climate change is an issue that needs to be resolved not only within a country, a region, or territory but also the responsibility of all members of the international community. In the context of increasingly deep integration, facing new opportunities and challenges when Vietnam participates in the Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership (CPTPP) and the Trade Agreement freedom between Vietnam and the European Union (EVFTA) requires internalization of the mandatory environmental commitments under these two Agreements. The author's article will detail the contents that Vietnam has committed to environmental issues, thereby proposing specific solutions to internalize commitments associated with the strategy successfully.

Keywords: climate change, respond to climate change, CPTPP, EVFTA.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 4, tháng 2 năm 2021]