Quy định của Đảng, Nhà nước về kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định về kê khai tài sản, thu nhập của đảng viên

PGS. TS. NGUYỄN THỊ BÁO - TS. TẠ VĂN NAM (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh)

TÓM TẮT:

Bài viết phân tích thực trạng quy định của Đảng và Nhà nước về kiểm soát tài sản, thu nhập (TSTN) của đảng viên. Đây là cơ sở để nghiên cứu đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm soát TSTN của đảng viên trong bối cảnh mới.

Từ khóa: tài sản, thu nhập, giám sát, đảng viên, pháp luật, quy định.

1. Công tác xây dựng và triển khai thực hiện chủ trương, nghị quyết và các văn bản của Đảng về việc kê khai TSTN của đảng viên

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước rất quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đối với việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản của cán bộ, đảng viên. Điều này được ghi nhận và thể hiện trong các nghị quyết, chỉ thị, kết luận như sau:

- Tại Hội nghị lần thứ 3 (năm 2006), Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng (PCTN), lãng phí. Đây được coi là Nghị quyết chuyên đề đầu tiên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đề cập một cách toàn diện, sâu sắc về công tác đấu tranh PCTN, lãng phí trong toàn hệ thống chính trị.

Tiếp đó, ngày 7/12/2007, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 115-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm. Trong đó có quy định cấm liên quan đến kê khai TSTN như sau: "Kê khai không đầy đủ TSTN theo quy định của pháp luật; trốn, trì hoãn nộp thuế; mở tài khoản ở nước ngoài trái quy định của pháp luật; tham gia hoạt động rửa tiền".

Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay tiếp tục khẳng định: "Thực hiện nghiêm việc kê khai tài sản theo quy định của Đảng và Nhà nước. Kê khai tài sản phải trung thực và được công khai ở nơi công tác và nơi cư trú". Như vậy, so với các quy định của Đảng trước đó, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) đã bổ sung yêu cầu việc công khai kết quả kê khai TSTN phải được thực hiện ở cả nơi cư trú.

Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cũng đã chỉ rõ:“Thực hiện có hiệu quả việc kê khai và công khai TSTN của cán bộ, công chức theo quy định,... Xử lý đúng pháp luật, kịp thời, công khai cán bộ tham nhũng, tịch thu, sung công tài sản tham nhũng, tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng... Tăng cường công tác kiểm toán, thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng.”

Trên cơ sở kết quả sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X), Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã ban hành Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/12/2012 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, đã khẳng định: “...Thực hiện nghiêm các quy định về minh bạch TSTN của cán bộ, công chức, viên chức. Nghiên cứu ban hành quy định về kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Sửa đổi Luật Phòng, chống tham nhũng và các văn bản liên quan khác để thực hiện việc công khai kết quả kê khai TSTN ở nơi công tác và nơi cư trú, theo yêu cầu của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI... Quy định về trách nhiệm giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm, theo yêu cầu của Nghị quyết Trung ương 3 khóa X. Quy định cơ quan quản lý cán bộ, công chức, viên chức chủ động kiểm tra, xác minh kết quả kê khai TSTN đối với nhũng người thuộc quyền quản lý”. Như vậy, tại Hội nghị này, Ban Chấp hành Trung ương đã yêu cầu không chỉ công khai bản kê khai TSTN ở nơi công tác và nơi cư trú mà còn mở rộng hơn về diện kê khai và phạm vi công khai TSTN, đồng thời bổ sung quy định cơ quan quản lý cán bộ, công chức, viên chức chủ động kiểm tra, xác minh kết quả kê khai TSTN đối với những người thuộc quyền quản lý.

Đặc biệt, tại Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 03/01/2014 của Bộ Chính trị khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản, sau khi đánh giá tình hình, Bộ Chính trị đặt ra nhiều yêu cầu phải thực hiện, đó là:  “Tăng cường lãnh đạo để thống nhất nhận thức cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và của cơ quan, tổ chức, đơn vị, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị về việc kê khai tài sản theo quy định của Đảng, Nhà nước...; phát huy vai trò trách nhiệm của cơ quan tổ chức, đơn vị và người đứng đầu trong việc tổ chức thực hiện các quy định của Đảng, Nhà nước về kê khai tài sản là tiêu chí để đánh giá cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức...”;  “... Chi ủy tổ chức việc công khai bản kê khai tài sản của đảng viên thuộc diện phải kê khai trong sinh hoạt chi bộ. Cấp ủy tổ chức công khai bản kê khai tài sản của cấp ủy viên trong sinh hoạt cấp ủy”...

Đến Đại hội lần thứ XII của Đảng đã xác định một trong các nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ Đại hội XII là “Đẩy mạnh đấu tranh PCTN, lãng phí, quan liêu”, và đề ra nhiều phương hướng, biện pháp để thực hiện nhiệm vụ này, trong đó có yêu cầu “Xử lý nghiêm minh trách nhiệm của người đứng đầu khi để các cán bộ, đảng viên, công chức vi phạm về kê khai và minh bạch TSTN”. Như vậy, văn kiện Đại hội XII đã lần đầu tiên đề cập đến việc xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi để cán bộ, đảng viên, công chức thuộc quyền quản lý vi phạm về kê khai và minh bạch TSTN.

Cùng với các chủ trương, định hướng nêu trên, trong quá trình kiểm soát việc kê khai TSTN, Đảng cũng nhận thấy, hầu hết các đối tượng có dấu hiệu tham nhũng đều tìm cách chống đối khi bị kiểm tra, thanh tra, điều tra... Để góp phần khắc phục tình trạng này, tại Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI), Đảng đã chủ trương: “Nghiên cứu áp dụng các biện pháp cần thiết để hạn chế khả năng đối phó của đối tượng có dấu hiệu tham nhũng, lãng phí khi bị thanh tra, kiểm tra, gây khó khăn cho hoạt động của các cơ quan chức năng”. Theo tinh thần đó, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu, đề xuất các biện pháp cần thiết, phù hợp với điều kiện thực tiễn.

Qua theo dõi tình hình thực hiện việc kê khai TSTN của cán bộ, đảng viên, nhận thấy việc kê khai tài sản còn mang tính hình thức, việc công khai bản kê khai tài sản chưa được thực hiện nghiêm túc, các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền chưa chủ động tiến hành xác minh tài sản của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thuộc diện phải kê khai, công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quy định về kê khai tài sản còn hạn chế, ngày 03/1/2014, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị 33-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kê khai và kiểm soát việc kê khai TSTN.

Tại Hội nghị Trung ương 3 (khóa XII) đã ban hành Quy định số 30-QĐ/TW quy định thi hành Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng, trong đó, đã bổ sung cho ủy ban kiểm tra các cấp nhiệm vụ kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản của cán bộ, công chức. Đây là lần đầu tiên, Đảng giao cho một cơ quan cụ thể có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản của cán bộ, công chức, thể hiện quyết tâm xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch của Đảng và Nhà nước ta.

Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã thẳng thắn chỉ ra giải pháp trong thời gian tới: “Thực hiện nghiêm việc kê khai TSTN theo quy định; xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải trình và giám sát việc tăng giảm tài sản của cán bộ, đảng viên. Cơ quan đề xuất đề bạt, bổ nhiệm cán bộ phải tiến hành thẩm định, xác minh, đánh giá tính trung thực của việc kê khai TSTN và công khai theo quy định”.

Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định số 85-QĐ/TW, ngày 23/5/2017 về kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản của cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý - phân công Ủy ban Kiểm tra Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan tham mưu, giúp việc của Trung ương Đảng hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, báo cáo kết quả việc thực hiện Quy định này; định kỳ sơ kết, tổng kết việc thực hiện Quy định, báo cáo và đề nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư xem xét, bổ sung, sửa đổi Quy định khi cần thiết; các tỉnh ủy, thành ủy và đảng ủy trực thuộc Trung ương, trên cơ sở Quy định này ban hành Quy định về kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản đối với cán bộ thuộc diện cấp ủy cấp mình quản lý.

Quy định số 01-QĐ/TW, ngày 10/5/2018 của Bộ Chính trị về trách nhiệm và thẩm quyền của ủy ban kiểm tra trong công tác phòng, chống tham nhũng, theo đó, ủy ban kiểm tra có trách nhiệm và thẩm quyền: “Giám sát tổ chức đảng, đảng viên trong việc kê khai và thực hiện kê khai, công khai tài sản theo quy định”.

Căn cứ Nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã ban hành các hướng dẫn về việc thực hiện công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng.

 Đến nay, Ủy ban Kiểm tra Trung ương chưa có văn bản hướng dẫn riêng về kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản đối với cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý. Tuy nhiên, tại Hướng dẫn số 02-HD/UBKTTW, ngày 12/9/2017 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương để thực hiện Quy định số 86-QĐ/TW, ngày 01/6/2017 của Bộ Chính trị về giám sát trong Đảng.

2. Quy định của Nhà nước về kiểm soát TSTN

2.1. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 và các văn bản dưới luật

Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi bổ sung vào các năm 2007 và 2012), nhằm đáp ứng các yêu cầu công tác PCTN trong tình hình mới. Luật Phòng, chống tham nhũng có 13 điều quy định về minh bạch TSTN.  Để cụ thể hóa và hướng dẫn thi hành các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng về minh bạch TSTN, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 37/2007/NĐ-CP ngày 9/3/2007 về minh bạch TSTN; Một loạt các văn bản hướng dẫn chi tiết cũng được ban hành và triển khai thực hiện.

Thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng (Luật sửa đổi, bổ sung), Chính phủ và Thanh tra Chính phủ đã ban hành các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một cách kịp thời và hiện tại là Nghị định số 78/2013/NĐ-CP ngày 17/7/2013 về minh bạch TSTN và Thông tư số 08/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 hướng dẫn thi hành các quy định về minh bạch TSTN.

2.2. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 và các văn bản dưới luật

Sau khi Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 được ban hành, Chính phủ đã ban hành 2 nghị định: Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01/7/2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng và Nghị định số 130/2020/NĐ-CP ngày 30/10/2020 về kiểm soát TSTN của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Những nội dung chính về kiểm soát TSTN như sau:

+ Cơ quan kiểm soát TSTN

Điều 30 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã quy định cụ thể về cơ quan kiểm soát TSTN theo hướng giao cho Thanh tra Chính phủ, Thanh tra các bộ, ngành, Thanh tra tỉnh kiểm soát TSTN của những người thuộc diện kê khai công tác tại các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương; các cơ quan khác và tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội chịu trách nhiệm kiểm soát TSTN của người kê khai công tác trong cơ quan, tổ chức mình.

+ Kê khai TSTN

- Về nghĩa vụ kê khai TSTN: Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 giữ nguyên quy định hiện hành về nghĩa vụ kê khai nhưng có điều chỉnh để rõ ràng, cụ thể hơn. Theo đó, người có nghĩa vụ kê khai phải kê khai TSTN và mọi biến động về TSTN của mình, của vợ hoặc chồng, con chưa thành niên.

- Về người có nghĩa vụ kê khai, tài sản: Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã mở rộng đối tượng có nghĩa vụ kê khai đến tất cả cán bộ, công chức nhằm mục đích chủ yếu là tạo cơ sở để so sánh, đối chiếu khi họ được bổ nhiệm vào chức vụ cao hơn hoặc khi có TSTN biến động trong năm từ 300 triệu đồng trở lên.

- Về TSTN phải kê khai: Kế thừa Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định chi tiết hơn về TSTN phải kê khai tại Điều 35 để dễ thực hiện trong thực tế.

- Về phương thức và thời điểm kê khai TSTN: Điều 36 Luật PCTN năm 2018 đã quy định các phương thức kê khai áp dụng cho từng đối tượng kê khai khác nhau, gồm kê khai lần đầu, kê khai bổ sung, kê khai hằng năm và kê khai phục vụ công tác cán bộ.

- Về công khai bản kê khai TSTN: Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 tiếp tục quy định bản kê khai được công khai tại cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó thường xuyên làm việc.

+ Xác minh TSTN

- Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã bổ sung một số căn cứ xác minh như khi có dấu hiệu rõ ràng về việc kê khai TSTN không trung thực; xác minh theo kế hoạch xác minh TSTN hằng năm đối với người có nghĩa vụ kê khai TSTN được lựa chọn ngẫu nhiên. Việc quy định xác minh theo kế hoạch là nhằm tăng cường ý thức tuân thủ trong kê khai và minh bạch TSTN của người có nghĩa vụ kê khai. Đồng thời, để tránh lạm dụng quy định này để trù dập cán bộ hoặc mục đích vì vụ lợi, Khoản 2 Điều 41 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 giao Chính phủ quy định chi tiết tiêu chí lựa chọn người có nghĩa vụ kê khai được xác minh và việc xây dựng, phê duyệt kế hoạch xác minh TSTN hằng năm.

- Về xử lý hành vi kê khai TSTN không trung thực, giải trình nguồn gốc TSTN tăng thêm không trung thực: Xử lý việc vi phạm đối với người có nghĩa vụ kê khai là đảng viên trước hết sẽ phải chịu trách nhiệm về hành chính khi có vi phạm, được quy định tài Điều 51 của Luật Phòng, chống tham nhũng và Điều 20 của Nghị định số 130/2020/NĐ-CP.

+ Cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát TSTN

Việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát TSTN là cần thiết, nhằm đảm bảo cho việc kiểm soát TSTN hiệu quả. Vì vậy, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã bổ sung quy định cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát TSTN; trách nhiệm xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát TSTN; bảo vệ, lưu trữ, khai thác, cung cấp thông tin cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát TSTN tại các Điều 52, 53 và 54.

+ Công tác kiểm tra và tự kiểm tra của cơ quan, tổ chức, đơn vị

Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định về công tác kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước; công tác tự kiểm tra của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Đồng thời, có bổ sung quy định kiểm tra hoạt động chống tham nhũng trong cơ quan thanh tra, Kiểm toán nhà nước, cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát Nhân dân, Tòa án Nhân dân tại Điều 57 của Luật.

+ Phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm toán

Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 tiếp tục quy định phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động giám sát của cơ quan dân cử, đại biểu dân cử và xử lý đề nghị của cơ quan dân cử, đại biểu dân cử tại Điều 59; phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động thanh tra, kiểm toán tại Điều 60.

+ Phản ánh, tố cáo, báo cáo về hành vi tham nhũng

Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã mở rộng hơn các hình thức tiếp nhận thông tin về tham nhũng so với quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, bao gồm: phản ánh, tố cáo và báo cáo về hành vi tham nhũng. Như vậy, việc cung cấp thông tin về tham nhũng có thể được thực hiện bằng các hình thức khác nhau như phản ánh, tố cáo, báo cáo. Qua đó, giúp các cơ quan có thẩm quyền trong việc tiếp nhận, thu thập các thông tin về tham nhũng nhằm phát hiện và xử lý nhanh chóng, kịp thời.

+ Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong PCTN

Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã quy định thành một chương riêng và sửa đổi, bổ sung nhằm cụ thể hóa và đề cao vai trò của người đứng đầu như sau:

- Xác định rõ nội dung trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong PCTN (Điều 70) để làm rõ căn cứ xác định trách nhiệm khi người đứng đầu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng trách nhiệm của mình, để xảy ra tham nhũng.

- Quy định trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc áp dụng biện pháp tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển sang vị trí công tác khác (Điều 71) và trách nhiệm của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách (Điều 72).

- Bổ sung quy định người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách mà chủ động từ chức trước khi cơ quan có thẩm quyền phát hiện, xử lý, trừ trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

3. Đánh giá chung

Thời gian qua, cùng với việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về minh bạch TSTN, tạo lập cơ sở pháp lý cho việc kê khai, công khai xác minh TSTN; các cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền đã bước đầu thực hiện có hiệu quả tổ chức việc kê khai tài sản của cán bộ, công chức, viên chức.

Mặc dù vậy, các quy định của Đảng và pháp luật nhà nước còn chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện, một số quy định chưa phù hợp với thực tiễn nên việc kê khai còn mang tính hình thức. Nhiều văn bản của Đảng đều yêu cầu đảng viên có chức vụ, quyền hạn phải kê khai về TSTN, nhưng mới chỉ tập trung yêu cầu kê khai trung thực, chưa quy định cụ thể về chế tài xử lý kèm theo.

Hơn nữa, các quy định của Nhà nước thể hiện trong Luật Phòng, chống tham nhũng, trong Nghị định 78/2013 và Thông tư 08/2013 hiện vẫn còn hiệu lực,... về nội dung biểu mẫu kê khai thì rất nhiều mục, hàng năm kê khai theo một mẫu thống nhất và mỗi lần kê khai nhiều nội dung thông tin trùng lặp...; việc xác nhận của cơ quan quản lý một cách hình thức vào bản kê khai (có nơi do Thủ trưởng đơn vị, có nơi do cơ quan quản lý cán bộ, có nơi do nhân viên tiếp nhận xác nhận...) đã thể hiện sự rườm rà, hình thức khó theo dõi, quản lý của việc kê khai và phần nào bộc lộ sự hạn chế, yếu kém của các cơ quan quản lý trong việc quản lý, theo dõi việc kê khai...

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2012). Nghị quyết hội nghị lần thứ năm, khóa XI “về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba BCHTW Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí”.
  2. Ban Nội chính Trung ương (2014). Tài liệu Hội thảo: “Thu hồi tài sản tham nhũng - thực tiễn Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế”.
  3. Ban Nội chính Trung ương (2014). Báo cáo số 80-BC/BNCTW ngày 15/5/2014 về công tác PCTN.

 

REGULATIONS OF THE COMMUNIST PARTY OF VIETNAM AND THE GOVERNMENT OF VIETNAM ON CONTROLLING ASSETS AND INCOME OF PARTY MEMBERS

Assoc.Prof. Ph.D NGUYEN THI BAO 1

Ph.D TA VAN N D NGUYEN THI BAO 1

Ph.D TA VAN NAM 1

1 Ho Chi Minh National Academy of Politics

ABSTRACT:

This paper analyzes the current regulations of the Communist Party of Vietnam and the Government of Vietnam on controlling assets and income of party members. Based on the paper’s findings, some solutions are proposed to improve the effectiveness of regulations on controlling assets and income of party members.

Keywords: asset, income, supervision, party membership, law, regulation.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, 

Số 24, tháng 10 năm 2021]