Sự chuẩn bị và đầu tư nguồn lực ứng phó với phòng vệ thương mại được nâng lên

Bà Nguyễn Thị Phương Thảo, Luật sư thành viên, Văn phòng Luật sư IDVN trao đổi về kinh nghiệm hỗ trợ, tư vấn cho doanh nghiệp Việt Nam ứng phó với các vụ việc bị điều tra, áp dụng phòng vệ thương mại tại thị trường nước ngoài.
bà Thảo - thương mại
Bà Nguyễn Thị Phương Thảo, Luật sư thành viên, Văn phòng Luật sư IDVN

Gia tăng nhiều vụ việc phòng vệ thương mại nhắm vào hàng hóa Việt Nam

PV: Thời gian qua, số lượng các vụ việc phòng vệ thương mại không chỉ tăng lên về số lượng mà còn đa dạng hơn cả về hình thức hay về những thị trường xuất khẩu áp dụng đối với hàng hóa của chúng ta. Việt Nam cũng đã ký kết rất nhiều hiệp định tự do thế hệ mới có vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng như CPTPP hay EVFTA.

Đặt trong bối cảnh đó, bà có thể phân tích những điểm khác biệt của các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam và bà đánh giá như thế nào về xu hướng của các vụ việc này trong thời gian tới, cũng như đặc điểm của các vụ việc phòng vệ thương mại hiện nay có khả năng sẽ xảy ra theo những chiều hướng và hình thức nào, thưa bà?

Bà Nguyễn Thị Phương Thảo: Có thể nói trong khoảng thời gian 10 năm vừa qua, số lượng vụ việc phòng vệ thương mại nhắm vào hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam ngày một gia tăng, cứ 5 năm số lượng vụ việc tăng gấp đôi. Trong khoảng thời gian đấy Việt Nam cũng tăng cường ký kết các hiệp định thương mại tự do.

Ưu điểm đầu tiên các hiệp định thương mại tự do mang đến chính là dỡ bỏ hoặc làm giảm đáng kể những rào cản về thuế quan tại các thị trường nhập khẩu, tạo động lực cho hàng hóa xuất khẩu của Vệt Nam thâm nhập sâu hơn và rộng hơn vào các thị trường này. Từ đấy cũng sẽ tạo ra những áp lực đối với hàng hóa được sản xuất tại chính những quốc gia nhập khẩu đó. Đấy là đặc điểm thứ nhất.

Đặc điểm thứ hai, khi Việt Nam trở thành đối tác của nhiều quốc gia hơn trong các hiệp định thương mại tự do đồng nghĩa với việc Việt Nam cũng trở thành một điểm đến thu hút hơn về mặt đầu tư, các doanh nghiệp nước ngoài từ rất nhiều quốc gia, kể cả từ những quốc gia sản xuất và xuất khẩu hàng đầu trên thế giới cũng có sự chuyển dịch sang Việt Nam tương đối đáng kể.

Chính từ hai nguyên nhân này làm gia tăng rất nhiều vụ việc phòng vệ thương mại nhắm vào Việt Nam trong giai đoạn gần đây, nhất là trong khoảng 3 năm trở lại đây. Đặc biệt trong năm 2022 các vụ việc phòng vệ thương mại có sự gia tăng đáng kể đối với một loại hình điều tra mới đó là điều tra chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại.

Điều tra chống lẩn tránh, về bản chất nghĩa là biện pháp phòng vệ thương mại đã được áp dụng ở tại một quốc gia khác ví dụ như Trung Quốc nhưng sau đó có thể các doanh nghiệp Trung Quốc chuyển dịch sang Việt Nam hoặc họ xuất khẩu sang nước áp dụng biện pháp đó thông qua Việt Nam, từ đó dẫn tới hàng hóa Việt Nam cũng bị áp dụng hoặc bị điều tra lẩn tránh phòng vệ thương mại.

Hệ quả của điều tra chống lẩn tránh cũng rất đặc thù. Nếu như quốc gia nhập khẩu xác định rằng có hành vi lẩn tránh thì quốc gia nhập khẩu có quyền áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại với mức độ tương tự giống như đang áp dụng cho quốc gia ban đầu.

Ví dụ như trong vụ việc gần đây nhất Việt Nam đang phải chịu điều tra của Hoa Kỳ đối với sản phẩm ván ép, mức thuế Hoa Kỳ đang áp dụng cho các sản phẩm từ Trung Quốc lên tới hơn 200% và khi phía Hoa Kỳ điều tra chống lẩn tránh với hàng hóa của Việt Nam, hàng hóa của Việt Nam sẽ có nguy cơ cũng bị áp dụng với mức thuế 200% đấy. Điều này rất khác với vụ việc chống bán phá giá bởi với vụ việc chống bán phá giá họ sẽ tính một biên độ riêng cho hàng hóa của Việt Nam.

Trong năm 2022 các vụ kiện liên quan tới chống lẩn tránh do Hoa Kỳ khởi xướng nhằm vào hàng hóa Việt Nam tương đối nhiều và có sự gia tăng. Hoa Kỳ cũng là quốc gia tiên phong trong việc điều tra và áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới, họ có bề dày lịch sử điều tra cũng như phát triển thực tiễn cách thức điều tra từ rất lâu và khi Hoa Kỳ chuyển dịch sang các cuộc điều tra về chống lẩn tránh hoặc chống gian lận cũng có thể sẽ tạo ra một tiền lệ để các quốc gia khác cân nhắc và lựa chọn một con đường như vậy.

Do đó các doanh nghiệp của Việt Nam phải hết sức cẩn trọng và ngoài vấn đề quan tâm đến giá bán hàng hóa, sản phẩm và chi phí sản xuất của chính mình thì còn phải quan tâm diễn biến liên quan tới các vụ việc hoặc các biện pháp phòng vệ thương mại mà các quốc gia nhập khẩu áp dụng cho các đối thủ cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Khó khăn và cách ứng phó

PV: Với những nỗ lực từ cả cơ quan quản lý nhà nước cũng như các hiệp hội, doanh nghiệp thì các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng đã nhận thức rõ rệt hơn không chỉ về các biện pháp phòng vệ thương mại mà cả về thiệt hại các vụ việc này có thể mang lại; các doanh nghiệp đã chủ động tìm hiểu và thuê các đơn vị tư vấn hỗ trợ về pháp luật ngay từ khi vụ việc có thông tin được khởi xướng điều tra.

Là người đại diện và tư vấn cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia giải quyết các vụ việc về phòng vệ thương mại trong thời gian vừa qua, theo bà các doanh nghiệp của chúng ta còn gặp phải những vấn đề những khó khăn như thế nào trong quá trình ứng phó với các vụ việc và bà có thể chia sẻ một số câu chuyện thực tế chúng ta đã gặp phải trong quá trình hỗ trợ doanh nghiệp?

Bà Nguyễn Thị Phương Thảo: Thực ra Việt Nam đã va vấp với các vụ việc về phòng vệ thương mại đầu tiên từ những năm 2002, 2003; tuy nhiên những vụ việc đó thường tập trung vào một số ngành hàng cụ thể và có thể chỉ những doanh nghiệp bị va vấp nắm được, còn những doanh nghiệp khác chưa va vấp bao giờ.

Thông thường các doanh nghiệp cũng không có nhu cầu tìm hiểu trước, chưa nắm được thông tin dẫn đến họ cũng chưa nhận thức được đầy đủ về những rủi ro nếu như họ không tham gia hoặc họ tham gia nhưng biện hộ không hiệu quả thì hệ quả sẽ như thế nào. Đây là điểm khó khăn đầu tiên doanh nghiệp thường gặp phải, nên khi xảy ra vụ việc thì họ mới bắt đầu tìm hiểu, thuê luật sư để được tư vấn, hỗ trợ.

Tuy nhiên phòng vệ thương mại là một cuộc điều tra rất kỹ thuật, liên quan tới vấn đề về sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và đòi hỏi liên quan tới khối lượng thông tin tài liệu, số liệu rất lớn; đồng thời cũng yêu cầu những sự đối chiếu hoặc nghĩa vụ chứng minh từ phía doanh nghiệp phải thực hiện đối với cơ quan điều tra của nước ngoài.

Thông thường bất cứ doanh nghiệp nào khi xây dựng cơ chế quản lý doanh nghiệp thực ra theo mục đích vận hành, không phải để phục vụ các vụ kiện. Chính vì lẽ đó khi va vấp phải các vụ kiện có rất nhiều thông tin, số liệu không sẵn có và dẫn tới doanh nghiệp bị đưa vào những tình thế rất bất lợi bị sử dụng những số liệu sẵn có hoặc là cáo buộc từ phía nguyên đơn. Đấy là khó khăn thứ hai mà các doanh nghiệp Việt Nam gặp phải.

Theo kinh nghiệm của chúng tôi làm việc với các doanh nghiệp, trong điều tra ban đầu, điều tra lần đầu tiên thì doanh nghiệp có thể vấp phải những khó khăn đó. Tuy nhiên theo thời gian tham gia vào các đợt rà soát hành chính hằng năm, nhận thức cũng như sự đầu tư của doanh nghiệp cho các hoạt động phòng ngừa và khắc phục các biện pháp phòng vệ thương mại cũng được nâng cao rất nhiều; không chỉ trong quá trình tham gia biện pháp phòng vệ thương mại mà còn trong việc hỗ trợ và hợp tác với cơ quan Chính phủ để làm sao giảm thiểu tác động từ các biện pháp đó.

Ví dụ như Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản VASEP là một hiệp hội rất thành công trong việc ứng phó với việc bị áp mức thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm tôm, cá basa từ những năm 2002. Đến nay, thực ra mức áp thuế vẫn đang có hiệu lực nhưng trong nhiều năm các doanh nghiệp đã thành công đưa được mức thuế về 0% và từ đó có thể nâng cao được giá trị xuất khẩu cũng như lượng xuất khẩu vào các thị trường trọng điểm, kể cả Hoa Kỳ.

Cũng như vụ việc sản phẩm xi măng Việt Nam bị điều tra phòng vệ thương mại tại Philippines, quá trình phối hợp ứng phó của các doanh nghiệp cùng với Hiệp hội Xi măng Việt Nam và cơ quan Chính phủ, các luật sư đã tạo ra kết quả có thể nói tương đối khả quan trong việc giúp các doanh nghiệp xuất khẩu xi măng giữ được thị trường.

PV: Ở góc độ pháp lý, bà có thể chia sẻ những lời khuyên cho các doanh nghiệp của chúng ta làm thế nào để có thể nâng cao năng lực pháp lý hơn cũng như chủ động nhận biết và ứng phó vượt qua những rào cản phòng vệ thương mại tại thị trường xuất khẩu? Các doanh nghiệp cần phải chuẩn bị những gì nếu như chúng ta bị điều tra phòng vệ thương mại tại các thị trường xuất khẩu?

Bà Nguyễn Thị Phương Thảo: Trong trường hợp các doanh nghiệp bị điều tra phòng vệ thương mại tại thị trường xuất khẩu, quan trọng nhất là phải gạt bỏ tâm lý e ngại, chủ động và nghiêm túc tham gia vào các vụ việc đó.

Tôi cũng muốn chia sẻ thêm những khuyến nghị cho các doanh nghiệp trong điều kiện vẫn được coi là an toàn, chưa bị va vấp với các vụ kiện phòng vệ thương mại. Khi xây dựng các chiến lược kinh doanh, doanh nghiệp cũng cần phải định hình xem là liệu thị trường xuất khẩu có tầm quan trọng như thế nào đối với sự sống còn của doanh nghiệp.

Nếu như các thị trường xuất khẩu là quan trọng thì ngoài các thông tin liên quan tới tiêu chí kỹ thuật, liên quan tới tiếp cận thị trường thì doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu quy định cơ bản về phòng vệ thương mại tại các quốc gia đó. Bởi vì khi điều tra phòng vệ thương mại, mỗi quốc gia sẽ điều tra theo nội luật, quy định của từng quốc gia, ví dụ Hoa Kỳ sẽ điều tra theo pháp luật Hoa Kỳ, Philippines sẽ điều tra theo pháp luật Philippines…

Thêm nữa, sau khi có được các thông tin về quy định pháp lý của các quốc gia, doanh nghiệp phải thường xuyên theo dõi và cập nhật thông tin về thị trường ấy, đôi khi việc những đối thủ cạnh tranh của Việt Nam như Trung Quốc hoặc Ấn Độ bị áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại vừa là thuận lợi nhưng đồng thời cũng vừa là nguy cơ đối với Việt Nam. Thuận lợi ở chỗ, khi bị áp thuế các doanh nghiệp Trung Quốc hay Ấn Độ bị loại bỏ khỏi một thị trường nhập khẩu thì chắc chắn hàng hóa Việt Nam sẽ có cơ hội hơn nhưng đồng thời nguy cơ là Việt Nam có thể trở thành mục tiêu tiếp theo.

Thực tế trong rất nhiều vụ việc thì Việt Nam bị điều tra theo, chúng tôi vẫn nói vui là bị oan hoặc bị vạ lây, có nghĩa thực ra các vụ điều tra đấy thì kim ngạch xuất khẩu Việt Nam rất thấp nhưng bởi vì khi họ điều tra những nước lớn ví dụ như Trung Quốc sẽ có một tâm lý ở phía nhà nhập khẩu, nước nhập khẩu là hàng hóa của Trung Quốc sẽ qua Việt Nam hoặc các nhà sản xuất của Trung Quốc sẽ chuyển qua Việt Nam vì thế nên họ sẽ ghép luôn Việt Nam vào đơn kiện đó.

Đấy cũng là một điểm các doanh nghiệp cần phải nhìn nhận một cách chính xác hơn về sự kiện đó, không chỉ là thuận lợi mà còn phải nhìn nhận về mặt rủi ro sẽ bị kiện trong khoảng thời gian 1 năm, 2 năm hay 3 năm hay không và nếu như có rủi ro đấy thì cần phải chuẩn bị trước. Việc chuẩn bị sẽ có tác động rất lớn bởi vì doanh nghiệp sẽ chuẩn bị được hệ thống sổ sách, số liệu, con người và thậm chí chuẩn bị được cả kinh phí để nếu như có va vấp vào vụ kiện cũng sẽ biện hộ rất thành công.

Việt Hằng