Quan hệ kinh tế thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và châu Mỹ đã có những bước phát triển tích cực trong những năm đây. Chỉ tính riêng 10 năm trở lại đây, giá trị thương mại hai chiều đã tăng gần 5 lần, từ 28 tỷ USD vào năm 2011 lên 139 tỷ USD tỷ USD vào năm 2021. Xét về kim ngạch thương mại với Việt Nam, châu Mỹ liên tục là châu lục đạt mức tăng trưởng thương mại cao nhất trong nhiều năm qua.

Về đầu tư trực tiếp, tính đến hết tháng 4 năm 2022, có 27 quốc gia và vùng lãnh thổ tại châu Mỹ đầu tư vào Việt Nam với 1676 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 23,6 tỷ USD. Ở chiều ngược lại, tính đến hết tháng 2 năm 2022, Việt Nam có 250 dự án đầu tư sang các quốc gia và vùng lãnh thổ châu Mỹ, với tổng vốn đăng ký đạt hơn 4,5 tỷ USD.

Năm 2021, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và các nước khu vực châu Mỹ năm đạt khoảng 139 tỷ USD, tăng 24,1% so với năm 2020 và chiếm 20,7% tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam với nước ngoài. Trong đó, xuất khẩu của Việt Nam đạt 114 tỷ USD, tăng 26,5%; nhập khẩu đạt 25 tỷ USD, tăng 14,2%.

Đáng chú ý, trao đổi thương mại với tất cả các thị trường lớn tại khu vực đều ghi nhận tăng trưởng ở mức 2 con số, nổi bật là Hoa Kỳ (22,9%), Brazil (35,2%), Canada (18,5%), Mexico (37,5%), Chile (54,1%)… Đây là kết quả hết sức tích cực trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đã tác động mạnh đến kinh tế, xã hội của Việt Nam và các nước châu Mỹ nói riêng cũng như trên phạm vi toàn cầu.

Kim ngạch thương mại Việt Nam – châu Mỹ giai đoạn 2011-2021

Bước sang năm 2022, thương mại song phương tiếp tục đạt được những kết quả khả quan. Tổng giá trị xuất nhập khẩu hai chiều trong 4 tháng đầu năm tăng 17,8% đạt hơn 50 tỷ USD. Giá trị hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu đều ghi nhận tăng trưởng tích cực.

Các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam gồm có: Điện thoại các loại và linh kiện, máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, Giày dép các loại, hàng dệt may…

Các sản phẩm nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ khu vực gồm có: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác, thức ăn gia súc và nguyên liệu, dược phẩm, Bông các loại…

Để thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư, Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định, thoả thuận với các nước trong khu vực châu Mỹ. Trong đó phải kể đến Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ ký năm 2000, Hiệp định thương mại tự do với Chile năm 2011, Hiệp định thương mại với Cuba ký năm 2018 và hiện đang trao đổi khả năng đàm phán Hiệp định thương mại tự do với Khối Thị trường chung Nam Mỹ (Mercosur).

Đặc biệt, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), với 11 thành viên trong đó có Canada, Chile, Peru, Mexico và Việt Nam được ký kết vào tháng 3 năm 2018 và có hiệu lực từ ngày 14 tháng 1 năm 2019 được coi là bước ngoặt quan trọng tạo ra xung lực mới để thúc đẩy hợp tác thương mại – đầu tư giữa Việt Nam và các nước châu Mỹ.

Việt Nam cũng đã thành lập các cơ chế đối thoại với nhiều đối tác tại khu vực như Hội đồng Thương mại và Đầu tư Việt Nam – Hoa Kỳ (TIFA); các Ủy ban liên Chính phủ, Ủy ban Hỗn hợp và Hội đồng Thương mại tự do với 10 nước Mỹ Latinh và mới đây nhất là Ủy ban hỗn hợp về kinh tế Việt Nam – Canada đã được thành lập vào tháng 1 năm 2022. Các cơ chế này đã trở thành kênh quan trọng để các Bên trao đổi thông tin; rà soát các nội dung hợp tác và thảo luận các biện pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư.

Tại khu vực châu Mỹ, Hoa Kỳ là đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Các hoạt động thương mại với Hoa Kỳ chiếm tới hơn 80% giá trị xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và toàn bộ châu Mỹ.

Dư địa phát triển cho quan hệ thương mại song phương còn rất lớn, thể hiện rõ qua việc kim ngạch xuất nhập khẩu liên tục đạt được những bước phát triển ấn tượng. Trong giai đoạn 2011-2021, kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ tăng gần 5,2 lần.

Xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ trong giai đoạn này tăng gần 5,7 lần; nhập khẩu tăng gần 3,4 lần. Hoa Kỳ hiện đang dẫn đầu các thị trường xuất khẩu của Việt Nam với kim ngạch vượt xa các thị trường xuất khẩu lớn khác của Việt Nam như Trung Quốc, EU, ASEAN, Hàn Quốc và Nhật Bản. Trong khi đó, Việt Nam đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ 10 của Hoa Kỳ và là một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng nhiều loại hàng hóa cho thị trường Hoa Kỳ.

Kể từ khi Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ được ký kết năm 2000, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã thay đổi đáng kể theo hướng tăng dần nhóm hàng chế biến, chế tạo, từng bước nâng cao giá trị gia tăng.

Trong giai đoạn 2011-2021, nhiều nhóm hàng đã nổi lên chiếm tỷ trọng lớn trong thương mại song phương như nhóm dệt may, giày dép, nông, lâm, thủy sản và nhóm các mặt hàng công nghệ điện tử kỹ thuật cao như máy vi tính, điện thoại, linh kiện điện tử, máy móc phục tùng. Đây cũng là những ngành hàng tiềm năng cho các doanh nghiệp trong nước tiếp tục thúc đẩy xuất khẩu sang Hoa Kỳ trong thời gian tới.

Ở chiều ngược lại, Việt Nam cũng nhập khẩu một lượng hàng hóa, nguyên liệu lớn từ Hoa Kỳ. Một số mặt hàng nhập khẩu chính của Việt Nam từ Hoa Kỳ như: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; Bông; Máy móc, thiết bị phụ tùng; Chất dẻo nguyên liệu...

Với quy mô dân số hơn 333 triệu người cùng sức mua lớn, Hoa Kỳ là thị trường tiềm năng và đang phát triển rất tích cực. Đây là thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới với sức mua cao, đồng thời là thị trường có xu hướng tăng cả về giá cũng như quy mô; môi trường chính sách, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đang có nhiều thuận lợi; nhu cầu và tập quán tiêu dùng phong phú theo thu nhập, đặc trưng văn hóa, vùng miền tạo nên dư địa lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam khai thác có hiệu quả; ngoài ra lực lượng người Việt đông đảo chính là cầu nối, là nhóm khách hàng quan trọng của hàng hóa Việt Nam. 

Bên cạnh đó, các quốc gia khác tại khu vực châu Mỹ cũng đang đem lại những cơ hội kinh doanh lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Tại châu Mỹ, có 04 quốc gia tham gia Hiệp định CPTPP, bao gồm Canada, Mexico, Chile và Peru.

Tính tới thời điểm hiện tại, Hiệp định này đã có hiệu lực tại Canada, Mexico và Peru, trong khi Chile đang trong quá triển phê chuẩn. Đây là lần đầu tiên Việt Nam có quan hệ FTA với Canada, Mexico và Peru, những ưu đãi thuế quan trong hiệp định đã tạo ra những cơ hội và dư địa thị trường rất lớn cho hàng hóa xuất khẩu của ta.

Các cam kết cắt giảm thuế quan sâu trong khuôn khổ CPTPP được đánh giá là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp trong nước có thể thúc đẩy các hoạt động thương mại song phương. Kể từ khi hiệp định CPTPP đi vào có hiệu lực, giá trị trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các quốc gia này ghi nhận mức tăng trưởng rất ấn tượng, như Canada tăng từ 3,87 tỷ USD (năm 2018) lên 6,1 tỷ USD (năm 2021) hay Mexico tăng từ 3,4 tỷ USD (năm 2018) lên 5,1 tỷ USD (năm 2021).

Theo lộ trình giảm thuế đã được cam kết trong CPTPP, thuế nhập khẩu sẽ tiếp tục giảm sâu trong những năm tiếp theo, mở ra cơ hội lớn cho hàng hóa Việt Nam thâm nhập mạnh hơn nữa vào các thị trường này, đặc biệt là đối với một số mặt hàng như thủy sản, đồ gỗ, dệt may, giày dép, nông sản (chè, hạt tiêu, hạt điều…).

Với các nước Mỹ Latinh và Caribe, nền kinh tế phát triển năng động và thị trường tương đối “dễ tính”, không có những quy định, rào cản quá khắt khe về mặt chất lượng, giá cả… là những điều kiện thuận lợi để các quốc gia này trở thành các thị trường tiềm năng cho doanh nghiệp Việt Nam.

Trong giai đoạn 2011-2021, kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và các nước Mỹ Latinh đạt được đà tăng trưởng liên tục với tốc độ tăng trưởng thương mại cao hơn trung bình của nhiều khu vực khác trên thế giới. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và khu vực tăng hơn 4,1 lần từ 5,22 tỷ USD (năm 2011) lên 21,5 tỷ USD (năm 2021).

Các nước Mỹ Latinh – Caribe có nhu cầu nhập khẩu lớn các mặt hàng vốn là thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam như gạo, giày dép, dệt may, thủy sản, đồ gỗ, máy tính, điện tử tin học, máy móc, cơ khí, vật liệu xây dựng, hóa chất, thực phẩm… Việc phát triển mở rộng thị trường xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực Mỹ Latinh sẽ góp phần giảm tải cho các thị trường truyền thống vốn đang nóng lên từng ngày do hàng hóa của ta phải cạnh tranh gay gắt, đối mặt với sự bảo hộ gia tăng, hệ thống rào cản ngày càng nhiều hơn, tinh vi hơn.

Nhờ đó, các doanh nghiệp có thể đa dạng hóa thị trường, thêm đối tác bạn hàng, mở rộng khả năng giao dịch về giá cả, nguồn hàng, góp phần giảm bớt rủi ro cho doanh nghiệp trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu không ngừng biến động. Mặt khác, ta có thể tranh thủ Mỹ Latinh với vai trò là nguồn cung cấp nguyên - nhiên liệu quan trọng của thế giới nhằm phục vụ cho nền sản xuất hàng hóa trong nước để xuất khẩu.

Dự báo trong thời gian tới, thị trường châu Mỹ sẽ tiếp tục phục hồi mạnh mẽ. Người dân và doanh nghiệp thích nghi dần với cuộc sống bình thường mới và sẽ không còn nguy cơ phong tỏa, đóng cửa hay hạn chế đi lại kéo dài gây đình trệ dòng sản xuất, lưu chuyển hàng hóa. Các chuỗi cung ứng, sản xuất mới sẽ nhanh chóng được định hình hoặc điều chỉnh.

Các gói cứu trợ kinh tế tiếp tục phát huy, thu nhập và sức mua của người dân được cại thiện đáng kể và sẽ bật tăng trở lại sau một thời gian dài kìm nén. Đây là những cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam nắm bắt để đưa được sản phẩm có thế mạnh, có chất lượng vào thị trường châu Mỹ hết sức rộng lớn này.

Thách thức và giải pháp

Mặc dù đã có những bước phát triển tích cực trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước khu vực châu Mỹ, vẫn tồn tại một số thách thức để thúc đẩy thương mại hai chiều:

Một là, sản phẩm hàng hóa xuất khẩu có giá trị gia tăng và hàm lượng công nghệ cao của Việt Nam sang thị trường khu vực châu Mỹ vẫn còn thấp. Còn nhiều mặt hàng mà thị trường có nhu cầu lớn nhưng doanh nghiệp Việt Nam chưa khai thác hết và mức độ xâm nhập chưa nhiều như hàng tiêu dùng, đồ gia dụng, thực phẩm, vật liệu xây dựng, sắt thép, hàng thủy sản...

Hai là, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn gặp một số khó khăn trong việc tiếp cận hệ thống phân phối tại các nước sở tại vì các tiêu chuẩn chất lượng.  Các doanh nghiệp Việt cũng ngày càng phải đối mặt với thách thức lớn hơn về các vụ kiện chống bán phá giá liên quan đến gian lận thương mại về xuất xứ hàng hóa.

Ba là, khoảng cách địa lý xa xôi ảnh hưởng lớn đến chi phí, thời gian vận chuyển. Trong đó, Mỹ Latinh là khu vực có khoảng cách và thời gian vận chuyển lớn nhất, với thời gian trung bình là 02 tháng. Điều này trực tiếp làm hạn chế việc xuất khẩu các mặt hàng nông sản của Việt Nam, cùng với đó làm giảm tính cạnh tranh về giá đối với các sản phẩm bản địa.

Bốn là, tình hình kinh tế toàn cầu có nhiều biến động, lạm phát tại các nước sẽ ảnh hưởng đến chi tiêu của người tiêu dùng, chi phí sản xuất, năng lượng, logistics tăng cao cũng làm giảm tính cạnh tranh của xuất khẩu của Việt Nam.

Để vượt qua những thách thức nhằm mục tiêu thúc đẩy kim ngạch thương mại cũng như hợp tác sâu rộng và toàn diện trên các lĩnh vực, cần nghiên cứu, triển khai một số biện pháp sau:

Về phía Chính phủ cần tiếp tục đẩy mạnh triển khai hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do, Hiệp định ưu đãi thương mại, hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp khai thác tốt lợi ích từ các Hiệp định ; hoàn thiện và tăng cường hiệu quả các khuôn khổ hợp tác như các Ủy ban liên Chính phủ, Ủy ban Hỗn hợp, Hội đồng thương mại…, đồng thời tìm kiếm và xây dựng các cơ chế hợp tác mới để thúc đẩy quan hệ thương mại với các đối tác châu Mỹ ; tăng cường cung cấp thông tin và quảng bá về môi trường và cơ hội kinh doanh tại Việt Nam đến các doanh nghiệp khu vực châu Mỹ và ngược lại, thông tin về chính sách xuất nhập khẩu và thị hiếu tiêu dùng tại các nước châu Mỹ cho các doanh nghiệp Việt Nam để các doanh nghiệp có được thông tin đầy đủ và cập nhật phục vụ việc xây dựng kế hoạch sản xuất và kinh doanh với các đối tác tại châu Mỹ. Khuyến khích và hỗ trợ trao đổi các đoàn thương mại, tổ chức các hội nghị hội thảo về kinh doanh, giới thiệu và hỗ trợ thiết lập quan hệ kinh doanh giữa các doanh nghiệp hai Bên.

Doanh nghiệp trong nước cần lưu ý

Thứ nhất,  điều tra, khảo sát  sức mua, thị hiếu và tiêu chuẩn kỹ thuật của thị trường Châu Mỹ để xác định chính xác đích đến của các sản phẩm của mình là thị trường nào, từ đó có những kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp.

Thứ hai, tìm hiểu và nắm vững những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật, chính sách thương mại, ưu đãi thuế quan và thị hiếu tiêu dùng tại các quốc gia châu Mỹ, tránh tình trạng bị trả lại hàng vì lý do kỹ thuật hoặc không được hưởng ưu đãi thuế quan vì không đáp ứng đủ điều kiện.

Thứ ba, trao đổi, liên lạc với hệ thống Thương vụ và Bộ Công Thương về mức độ uy tín của các doanh nghiệp nước ngoài, trong đó đặc biệt chú ý tới quy trình thanh toán và vận chuyển quốc tế.

Thứ tư, nghiên cứu, nắm rõ quy định điều tra phòng vệ thương mại của của các nước và cập nhật các diễn biến của vụ việc, cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan điều tra và phối hợp với Bộ Công Thương để nhận được sự hỗ trợ kịp thời trong trường hợp vụ việc điều tra được khởi xướng./.