Vai trò của Nhà nước trong chính sách an sinh xã hội kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam

ThS. HỒ DIỆU MAI (Khoa Quản lý Nhà nước về kinh tế, Học viện Hành chính Quốc gia - cơ sở TP. Hồ Chí Minh)

TÓM TẮT:

Chính sách an sinh xã hội là hệ thống chính sách quan trọng trong hệ thống chính sách phát triển của một quốc gia. Nhà nước Việt Nam đang từng bước hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội (ASXH) theo hướng sử dụng những công cụ của thị trường để thực hiện các mục tiêu xã hội. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam, nhất thiết cần phải học những bài học kinh nghiệm về xây dựng và thực thi chính sách an sinh xã hội của các nước trên thế giới để có những bước áp dụng phù hợp và hiệu quả trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Từ khóa: Chính sách an sinh xã hội, vai trò của Nhà nước, kinh nghiệm. 

1. Đặt vấn đề

Từ nhiều năm qua, đặc biệt là từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách ASXH, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để ổn định chính trị - xã hội, phát triển bền vững. ASXH được xác định là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội, nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bảo đảm ASXH là điều kiện để bảo đảm định hướng XHCN cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường, phản ánh bản chất tốt đẹp của chế độ. Đường lối, chủ trương và quan điểm của Đảng về ASXH đã được thể chế hóa trong các văn bản pháp luật, được hoạch định và triển khai thành hệ thống các chính sách ASXH liên quan đến các đối tượng khác nhau. Tuy có những kết quả ban đầu đáng khích lệ, nhưng việc xây dựng và thực thi chính sách ASXH ở Việt Nam hiện nay đang đứng trước những thách thức của quá trình hội nhập và nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân đáp ứng đòi hỏi của quá trình phát triển bền vững. Việc xây dựng và thực thi những chính sách ASXH hiện nay của Việt Nam một mặt cần thiết kế gắn với những đặc thù của nền kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước; mặt khác cần tích cực và chủ động học hỏi những bài học kinh nghiệm của các quốc gia đi trước để có những cơ chế, chính sách nhằm huy động tốt hơn các nguồn lực của toàn xã hội và ngày càng hoàn thiện.

2. Tiến trình phát triển của khái niệm an sinh xã hội

2.1. Khái niệm an sinh xã hội

Từ xa xưa, trước những khó khăn, rủi ro trong cuộc sống, con người đã tự khắc phục và được sự san sẻ, đùm bọc, cưu mang của cộng đồng. Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Những yếu tố đoàn kết, hướng thiện đó đã tác động tích cực đến ý thức và công việc xã hội của các Nhà nước dưới các chế độ xã hội khác nhau. Trong quá trình phát triển xã hội, đặc biệt là từ sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ thống ASXH đã có những cơ sở để hình thành và phát triển. Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức, nhiều bang đã thành lập quỹ ốm đau và yêu cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị giảm thu nhập vì bệnh tật. Từ đó, xuất hiện hình thức bắt buộc đóng góp. Lúc đầu chỉ có giới thợ tham gia, dần dần các hình thức bảo hiểm mở rộng ra cho các trường hợp rủi ro nghề nghiệp, tuổi già và tàn tật. Mô hình này của Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ Latin, rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Đến năm 1941, trong Hiến chương Đại Tây Dương và sau đó Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) chính thức dùng thuật ngữ này trong các công ước quốc tế. ASXH đã được tất cả các nước thừa nhận là một trong những quyền con người. Nội dung của ASXH đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn nhân quyền do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948. Tuy nhiên, ở mỗi nước lại sử dụng thuật ngữ này với các cách nói khác nhau như: Bảo đảm xã hội, an toàn xã hội, bảo trợ xã hội hoặc an sinh xã hội. Ở Việt Nam, thời gian gần đây, các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách đã thống nhất sử dụng thuật ngữ “an sinh xã hội”.

Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng: “An sinh xã hội là những biện pháp công cộng nhằm giúp cho các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng đương đầu và kiềm chế được nguy cơ tác động đến thu nhập nhằm giảm tính dễ bị tổn thương và những bấp bênh về thu nhập”. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) quan niệm: “An sinh xã hội là một hệ thống chính sách công nhằm giảm nhẹ tác động bất lợi của những biến động đối với các hộ gia đình và cá nhân”. Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): “An sinh xã hội là sự cung cấp phúc lợi cho các hộ gia đình và cá nhân thông qua cơ chế của nhà nước hoặc tập thể nhằm ngăn chặn sự suy giảm mức sống hoặc cải thiện mức sống thấp”. Theo “Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam” cũng đã thống nhất khái niệm về an sinh xã hội (Social Security) là: “Sự bảo vệ của xã hội đối với công dân thông qua các biện pháp công cộng nhằm giúp họ khắc phục những khó khăn về kinh tế và xã hội; đồng thời bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con...”.

Ở Việt Nam, thuật ngữ “an sinh xã hội” được xuất hiện vào những năm 1970 trong một số cuốn sách nghiên cứu về pháp luật của một số học giả Sài Gòn. Sau năm 1975, thuật ngữ này được dùng nhiều hơn và đặc biệt là từ những năm 1995 trở lại đây nó được dùng rộng rãi hơn. ASXH xét với tư cách là một hệ thống theo công ước số 102 “Công ước về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội” được hội nghị toàn thể của tổ chức lao động quốc tế (ILO) thông qua ngày 28/6/1952, bao gồm các chi nhánh:

1. Chăm sóc về y tế: Là việc phải cung cấp những trợ giúp cho người được bảo vệ khi tình trạng của họ cần đến sự chăm sóc y tế có tính chất phòng bệnh hoặc chữa bệnh. Các trường hợp bảo vệ phải bao gồm mọi tình trạng đau ốm vì bất kỳ nguyên nhân nào và cả trong các trường hợp thai nghén, sinh đẻ và các hậu quả tiếp theo.

2. Trợ cấp ốm đau: Là việc bảo đảm tự cung cấp cho những người được bảo vệ khoản trợ cấp do mất khả năng lao động do ốm đau gây ra và dẫn đến gián đoạn thu nhập.

3. Trợ cấp thất nghiệp: Dành cho những người bảo vệ được nhận một khoản trợ cấp khi mất việc làm không “tự nguyện”. Trường hợp bảo vệ phải bao gồm tình trạng gián đoạn thu nhập và xảy ra do không thể có được một công việc phù hợp, trong khi người được bảo vệ có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc.

4. Trợ cấp tuổi già (hưu bổng): Để đảm bảo cho những người được bảo vệ trong tình trạng họ có thời gian sống lâu hơn một độ tuổi quy định.

5. Trợ cấp trong trường hợp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp: Theo ILO, trường hợp được bảo vệ trong chế độ này phải bao gồm những trường hợp nếu do các tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp gây ra: Đau ốm, mất khả năng lao động dẫn đến gián đoạn thu nhập, mất hoàn toàn khả năng thu nhập hoặc một phần khả năng thu nhập, mất nguồn thu nhập do người trụ cột trong gia đình chết…

6. Trợ cấp gia đình (phụ cấp gia đình): Theo đó các trường hợp được bảo vệ là những người làm công ăn lương hay những loại được quy định trong dân số hoạt động được bảo vệ về những gánh nặng về con cái.

7. Trợ cấp thai sản: Áp dụng trong các trường hợp bảo vệ gồm thai nghén, sinh đẻ và những hậu quả kéo theo đó dẫn đến sự gián đoạn về thu nhập gây khó khăn cho đối tượng…

8. Trợ cấp tàn tật: Được thực hiện trong những trường hợp bản thân đối tượng cần được bảo vệ không có khả năng tiến hành một hoạt động có thu nhập ở một mức độ nhất định khi mà tình trạng đó có nguy cơ trở thành thường xuyên hoặc kéo dài sau khi đã ngừng thực hiện các khoản trợ cấp về ốm đau.

9. Trợ cấp tiền tuất: Được thực hiện trong khi những người thân thích (vợ, con cái) mất phương tiện sinh sống do người trụ cột trong gia đình chết.

2.2. Bản chất và tính tất yếu khách quan của an sinh xã hội

Mục tiêu của ASXH là tạo ra một lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp bảo vệ cho tất cả mọi thành viên của cộng đồng trong những trường hợp bị giảm hoặc bị mất thu nhập hoặc phải tăng chi phí đột xuất trong chi tiêu của gia đình do nhiều nguyên nhân khác nhau, như ốm đau, thương tật, già cả… gọi chung là những biến cố và những “rủi ro xã hội”. Để tạo ra lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp, ASXH dựa trên nguyên tắc san sẻ trách nhiệm và thực hiện công bằng xã hội, được thực hiện bằng nhiều hình thức, phương thức và các biện pháp khác nhau. Như vậy, có thể thấy rõ bản chất của ASXH là nhằm che chắn, bảo vệ cho các thành viên của xã hội trước mọi “biến cố xã hội” bất lợi. ASXH kích thích tính tích cực xã hội trong mỗi con người, kể cả những người giàu và người nghèo; người may mắn và người kém may mắn, giúp họ hướng tới những chuẩn mực của Chân - Thiện - Mỹ. Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng là một trong những nhân tố để ổn định và phát triển xã hội. Sự san sẻ trong cộng đồng, giúp đỡ những người bất hạnh là nhằm hoàn thiện những giá trị nhân bản của con người, bảo đảm cho một xã hội phát triển lành mạnh. Đồng thời, giúp mọi người hướng tới một xã hội nhân ái, góp phần tạo nên một cuộc sống công bằng, bình yên.

3. Chính sách an sinh xã hội trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội

Kinh tế thị trường đang trong quá trình hình thành ở Việt Nam, nhưng những nội dung của ASXH thì đã được thực hiện khá lâu. Do điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa lịch sử, mầm mống về ASXH đã có trong dân gian nước ta. Trong xã hội Việt Nam cận đại và đương đại, những nội dung của ASXH cũng đã được thực hiện, đó là BHXH đối với công nhân, viên chức Nhà nước (trước năm 1995); là cứu trợ xã hội đối với những người nghèo, người không may bị rủi ro trong cuộc sống; là ưu đãi xã hội đối với những người có công với đất nước. Một đặc trưng cơ bản của các hoạt động ASXH ở Việt Nam trong thời kỳ trước đổi mới là do Nhà nước thực hiện. Nhà nước đảm nhận cả hai vai, vừa là người ra chính sách, vừa là người thực hiện chính sách thông qua bộ máy của mình. Với cơ chế điều hành này mà nguồn lực tài chính chủ yếu là từ ngân sách nhà nước, chưa có sự tham gia đông đảo của người dân, của cả xã hội. Cơ chế điều hành theo kiểu hành chính mệnh lệnh này đã không cho phép người dân phát huy những nguồn lực của mình cho các hoạt động ASXH. Vì vậy, về phía xã hội thì lãng phí nguồn lực nhưng phân phối lại mang tính bình quân. Cũng như các nước có nền kinh tế thị trường, kinh tế thị trường ở Việt Nam đã làm cho đời sống kinh tế - xã hội năng động hơn, đa dạng hơn. Kinh tế thị trường mới tạo điều kiện hình thành các thành phần kinh tế. Người lao động có cơ hội và có điều kiện hơn phát huy được tiềm năng và khả năng của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trong các hoạt động xã hội. Đặc trưng cơ bản của ASXH trong nền kinh tế thị trường ở nước ta là sự chuyển giao dần dần “công việc” từ Nhà nước sang cho xã hội, cho cộng đồng, nhất là các hoạt động trợ giúp xã hội, xóa đói giảm nghèo… Nói tóm lại, những đặc trưng cơ bản nhất thể hiện rõ mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và ASXH ở Việt Nam là:

1. Kinh tế thị trường làm cho các hoạt động kinh tế - xã hội năng động hơn, người dân được phát huy khả năng của mình; đồng thời kinh tế thị trường tạo ra những “rủi ro xã hội” và luôn tiềm ẩn những “rủi ro xã hội” mới làm tăng nhu cầu về ASXH. Kinh tế thị trường làm cho đời sống các tầng lớp dân cư thay đổi, nhìn chung mức sống dân cư được nâng lên, nhưng sự phân hóa giàu nghèo tăng lên. Điều này làm cho nhu cầu về ASXH vừa được nâng lên và vừa đa dạng hơn.

2. Đã có sự chuyển giao dần từ Nhà nước sang cộng đồng các hoạt động ASXH. Nhà nước giữ vai trò hoạch định chính sách, tạo ra cơ chế phát huy tối đa tiềm năng và khả năng của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng và toàn xã hội trong các hoạt động ASXH. Đồng thời, Nhà nước có điều kiện thực hiện chức năng định hướng và kiểm tra, kiểm soát các hoạt động ASXH.

3. Kinh tế thị trường đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra tiền đề, cơ sở vững chắc cho các hoạt động ASXH. Nguồn lực cho các hoạt động ASXH được đa dạng hơn, phong phú hơn.

4. Người thụ hưởng chính sách ASXH được đảm bảo hơn, nhưng đồng thời họ có ý thức hơn đối với bản thân (đối với nhóm đối tượng của cứu trợ/trợ giúp xã hội), tích cực vươn lên để hòa nhập với cộng đồng.

4. Vai trò của Nhà nước trong chính sách an sinh xã hội

Trong thời gian gần đây, hệ thống ASXH của Việt Nam ngày càng thể hiện vai trò to lớn của nó đối với sự phát triển và ổn định kinh tế - xã hội, đó là:

Thứ nhất, ASXH góp phần ổn định đời sống của người lao động. Hệ thống ASXH sẽ góp phần thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi người lao động bị ốm đau, mất khả năng lao động, mất việc làm, hoặc chết. Nhờ có sự thay thế hoặc bù đắp thu nhập kịp thời mà người lao động khắc phục nhanh chóng được những tổn thất về vật chất, nhanh phục hồi sức khỏe, ổn định cuộc sống để tiếp tục quá trình hoạt động bình thường.

Thứ hai, ASXH góp phần đảm bảo an toàn, ổn định cho toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Để phòng ngừa, hạn chế tổn thất, các đơn vị kinh tế phải đề ra các quy định chặt chẽ về an toàn lao động buộc mọi người phải tuân thủ. Khi có rủi ro xảy ra với người lao động, hệ thống ASXH kịp thời hỗ trợ, tạo điều kiện cho người lao động nhanh ổn định cuộc sống và sản xuất. Tất cả những yếu tố đó góp phần quan trọng làm ổn định nền kinh tế - xã hội.

Thứ ba, hệ thống ASXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Quỹ , trong đó có quỹ BHXH là nguồn tài chính tập trung khá lớn, được sử dụng để chi trả các chế độ cho người lao động và gia đình họ, phần nhàn rỗi được đầu tư vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh để bảo tồn và tăng trưởng quỹ. Như vậy xét trên cả phương diện chi trả các chế độ, cũng như đầu tư tăng trưởng quỹ, hoạt động của quỹ ASXH đều góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế.

5. Kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam

Đối với Việt Nam, từ khi thống nhất đất nước, mô hình hệ thống ASXH đã có những chuyển biến lớn. Trong thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, mô hình ASXH thực chất là thực hành mô hình Nhà nước phúc lợi. Sau khi xóa bỏ cơ chế bao cấp, việc bảo đảm ASXH ở nước ta tuy được quan tâm, nhưng chưa được phát triển một cách có hệ thống. Đảng và Nhà nước ta khẳng định con đường tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội (XHCN) đồng thời lựa chọn mô hình “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” để thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, mà thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế - xã hội vừa tuân theo nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường vừa hướng đến các giá trị cốt lõi của CNXH. Nói cách khác đó là “sử dụng công cụ thị trường thực hiện mục tiêu xã hội”. Với những điều kiện đó, mô hình hệ thống ASXH của Việt Nam sẽ phải là mô hình kết hợp vừa có đặc trưng của Nhà nước xã hội và Nhà nước phúc lợi.

5.1. Về quan điểm

Một là, việc đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính sách ASXH phải trên cơ sở quán triệt và thực hiện tốt quan điểm của Đảng và Nhà nước là kết hợp hài hòa giữa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội với bảo đảm ASXH ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.

Hai là, phát triển hệ thống chính sách ASXH và bảo đảm ASXH là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Trong đó, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách ASXH, đồng thời phát huy vai trò và trách nhiệm của cá nhân, hộ gia đình, người lao động, doanh nghiệp và cộng đồng trong việc bảo đảm ASXH theo tinh thần xã hội hóa, tạo điều kiện để người dân nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh.

Ba là, hệ thống ASXH phải đa dạng, đa tầng, toàn diện, linh hoạt, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ; bảo đảm bền vững, công bằng, phù hợp với nội dung, cách tiếp cận và chuẩn mực mang tính hội nhập quốc tế, tăng cường hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách ASXH.

5.2. Về giải pháp

Một là, tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý, các chính sách và giải pháp bảo đảm ASXH. Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật về ASXH, nhằm đảm bảo cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện đồng bộ, nghiêm túc, hiệu quả các quy định, chính sách, chế độ ASXH.

Hai là, hoàn thiện tổ chức, bộ máy, cơ chế quản lý, thực hiện công tác ASXH theo hướng đa dạng hóa tổ chức dịch vụ ASXH. Rà soát, củng cố và hoàn thiện hệ thống các cơ quan thực hiện công tác ASXH các cấp từ trung ương đến địa phương, đặc biệt là cấp cơ sở. Tăng cường lực lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác ASXH.

Ba là, tăng cường vai trò chủ đạo của Nhà nước trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách ASXH; thực hiện tốt sự phối kết hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước và mạng lưới các tổ chức thực hiện chính sách ASXH; xây dựng bộ chỉ số ASXH làm cơ sở để theo dõi, đánh giá hiệu quả thực hiện ASXH của đất nước trong từng thời kỳ và tham chiếu với quốc tế.

Bốn là, tăng cường công tác thông tin, truyền thông, tuyên truyền, phổ biến đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các thông tin về ASXH nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các đoàn thể và người dân về lĩnh vực này.

Năm là, tăng cường sự đầu tư của Nhà nước, làm tốt công tác xã hội hóa, huy động sự tham gia của toàn xã hội và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế trong việc đảm bảo ASXH. Nhà nước tăng cường đầu tư bảo đảm nguồn lực và cơ chế tài chính thực hiện ASXH theo phương châm từng bước mở rộng diện bao phủ tiến tới bao phủ toàn dân. Quản lý chặt chẽ quỹ ASXH, hình thành các quỹ dự phòng và cơ chế hỗ trợ kịp thời cho các đối tượng khi có rủi ro đột xuất.

6. Kết luận

Việt Nam đang chuyển từ mô hình phát triển bề rộng, sử dụng nhiều lao động phổ thông giản đơn và vốn, tài nguyên, hiệu quả thấp sang phát triển theo chiều sâu, nâng cao giá trị gia tăng, tập trung vào các ngành có hàm lượng công nghệ cao, phát triển kinh tế tri thức. Quá trình đó gắn với tái cấu trúc lại nền kinh tế, phân bổ hợp lý hơn các nguồn lực, tạo ra sự phân công lao động xã hội mới đã, đang và sẽ tạo ra những dòng di chuyển việc làm, di chuyển lao động diễn ra ngày càng mạnh, gây nên những biến đổi xã hội, thay đổi cơ cấu xã hội - dân cư, nghề nghiệp, thay đổi mức sống và lối sống. Dưới tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường, các nhóm yếu thế dễ bị tổn thương hơn do hạn chế về khả năng cạnh tranh, phòng ngừa rủi ro, tìm kiếm cơ hội vươn lên, tạo áp lực lớn cho việc bảo đảm quyền và cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, quyền thụ hưởng các chính sách ASXH của họ. Bảo đảm an sinh xã hội trở thành vấn đề trung tâm trong chiến lược phát triển đất nước, bởi vì việc chăm lo, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân là mục tiêu cao nhất của sự nghiệp xây dựng xã hội XHCN ở Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh - Kỷ yếu hội thảo "Ổn định kinh tế Vĩ mô và phát triển kinh tế" - NXB Kinh tế TP. Hồ Chí Minh 2012.

2. Holger Rogall - Kinh tế học bền vững - NXB Khoa học tự nhiên và công nghệ 2011.

3. Jean Yves Martin - Phát triển bền vững - Học thuyết, thực tiễn, đánh giá - NXB Thế giới 2007.

4. Mai Ngọc Cường - Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam - NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2009.

5. Lê Quốc Lý - Chính sách an sinh xã hội, thực trạng và giải pháp - NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2014.

6. Phạm Văn Sáng - Lý thuyết và mô hình an sinh xã hội (phân tích thực tiễn ở Đồng Nai) - NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2009.

THE ROLE OF THE STATE IN SOCIAL SECURITY POLICY-EXPERIENCE AND LESSONS FOR VIETNAM

MA. HO DIEU MAI

Department of State Management in Economics, National Academy of Public Administration - HCMC campus

ABSTRACT :

Social security policy is an important policy system in a country's main development policy system. The State of Vietnam is gradually improving the social security policy system in the direction of using the tools of the market to achieve such objectives. In the context of international integration and sustainable development, it is necessary to learn lessons on the development and the implementation of social security policies in countries around the world hence to apply back effectively under specific conditions of Vietnam.

Keywords: Social security policy, Role of the state, Experience.

Xem tất cả ấn phẩm Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 07 tháng 06/2017 tại đây