TÓM TẮT:
Bài nghiên cứu xác định mức độ tác động của của các yếu tố đến rủi ro tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HSX). Tác giả sử dụng dữ liệu từ báo cáo tài chính đã kiểm toán của 124 doanh nghiệp niêm yết trên sàn HSX trong giai đoạn 2019 - 2023. Nghiên cứu sử dụng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng theo các mô hình POLS, FEM, REM và sử dụng FGLS để khắc phục khuyết tật của mô hình. Kết quả ước lượng hồi quy dữ liệu bảng cho thấy, các biến khả năng thanh toán ngắn hạn, tỷ suất sinh lợi trên doanh thu, hệ số vốn cố định, vòng quay tài sản cố định, hệ số tự tài trợ, vòng quay tổng tài sản, vòng quay khoản phải thu và quy mô doanh nghiệp có tác động đến rủi ro tài chính của các doanh nghiệp.
Từ khóa: rủi ro tài chính, cấu trúc tài chính, HSX, Vietnam.
1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh thị trường tài chính biến động mạnh, rủi ro tài chính trở thành mối quan tâm lớn của doanh nghiệp, nhà đầu tư và nhà quản trị. Rủi ro tài chính không chỉ ảnh hưởng đến khả năng thực hiện nghĩa vụ tài chính mà còn tác động đến giá trị, khả năng huy động vốn và tính bền vững của doanh nghiệp. Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tài chính của doanh nghiệp niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2019-2023, đồng thời cung cấp căn cứ thực tiễn giúp doanh nghiệp hoạch định chiến lược tài chính hiệu quả hơn.
2. Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu
Rủi ro tài chính là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong quản trị tài chính, do ảnh hưởng sâu rộng của rủi ro này đến quá trình phát triển bền vững của doanh nghiệp. Khái niệm về rủi ro tài chính được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau trong các nghiên cứu trước đây. Theo Li (2003), rủi ro tài chính đề cập đến sự không chắc chắn từ biến động của các yếu tố kinh tế như lãi suất, tỷ giá hối đoái, giá hàng hóa và giá cổ phiếu. Trong khi đó, Napp (2011) phân chia rủi ro tài chính theo hai hình thức khác nhau: rủi ro bên ngoài - phụ thuộc các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường tài chính; rủi ro bên trong - do yếu tố chủ quan từ tình hình tài chính doanh nghiệp dẫn đến khả năng doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ tài chính đúng hạn. Ngoài ra, Fali & ctg (2020) cho rằng rủi ro tài chính là xác suất xảy ra phá sản của doanh nghiệp khi sử dụng đòn bẩy tài chính nhằm đáp ứng các nghĩa vụ tài chính nhưng không duy trì được số dư tiền mặt cần thiết.
Từ các quan điểm trên cho thấy rủi ro tài chính là những rủi ro phát sinh trong quá trình kinh doanh, gây ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình tài chính tổng thể của doanh nghiệp. Rủi ro tài chính còn ảnh hưởng đến khả năng tái đầu tư, sự cân đối dòng tiền, khả năng thanh toán và nghiêm trọng nhất dẫn đến giảm giá trị doanh nghiệp, tăng nguy cơ phá sản (Roy & Bandopadhyay, 2021). Vì vậy, theo Padash & Ghatari (2020), xây dựng mô hình đánh giá rủi ro tài chính nhằm sớm dự báo các khủng hoảng tài chính cho doanh nghiệp và đưa ra các biện pháp ứng phó phù hợp là hết sức cần thiết đối với doanh nghiệp.
Đến hiện tại, nhiều nghiên cứu đã xây dựng và phát triển các mô hình đa dạng để đánh giá tác động của các yếu tố nội tại đến mức độ rủi ro tài chính, với các phương pháp phân tích và tính toán có mức độ phức tạp khác nhau. Điển hình là mô hình FRit của Alexander Bathory (1984) sử dụng phương pháp hồi quy tuyến tính nhằm xác định các yếu tố bên trong doanh nghiệp ảnh hưởng đến rủi ro tài chính: cơ cấu nguồn vốn, hiệu quả hoạt động, khả năng thanh toán và khả năng sinh lời. Mô hình này đã được áp dụng trong nghiên cứu tại Trung Quốc của Gang & Liu (2012) với kết luận rủi ro tài chính có mối tương quan nghịch với tỷ suất sinh lời trên doanh thu, khả năng thanh toán ngắn hạn, hệ số tài sản cố định. Trong khi đó, tại Ấn Độ, Bhunia & Mukhuti (2012) cũng áp dụng mô hình của Bathory trên 513 công ty vừa và nhỏ niêm yết trên thị trường chứng khoán Boombay trong giai đoạn 2001-2011. Nghiên cứu khẳng định khả năng thanh toán ngắn hạn, tỷ suất sinh lời trên doanh thu có ý nghĩa thống kê và mối quan hệ thuận chiều với rủi ro tài chính nhưng cấu trúc vốn và hiệu suất hoạt động lại cho kết quả ngược lại.
Tại Việt Nam, Võ Minh Long (2020) và Bùi Duy Linh (2024) cho rằng, hệ số thanh toán ngắn hạn, tỷ số tự tài trợ tác động cùng chiều với rủi ro tài chính, các biến vòng quay tổng tài sản, vòng quay khoản phải thu lại có kết quả ngược chiều và tất cả đều có ý nghĩa thống kê cao. Ngoài ra, Đặng Thu Hằng & ctg (2020) đã thu thập dữ liệu của 524 doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2009 - 2019. Kết quả cho thấy, rủi ro tài chính có mối tương quan thuận với hệ số thanh toán nhanh, vòng quay khoản phải thu, vòng quay tài sản cố định, cấu trúc vốn, quy mô doanh nghiệp và tương quan nghịch với vòng quay tổng tài sản.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Mô hình nghiên cứu (Bảng 1)
Dựa trên cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước đã trình bày ở trên giúp hình thành mô hình nghiên cứu các yếu tố tác động đến rủi ro tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán HOSE, như sau:
Bảng 1. Mô tả biến nghiên cứu và kỳ vọng dấu giữa biến độc lập và biến phụ thuộc:
Tên biến |
Ký hiệu |
Cách đo lường |
Kỳ vọng dấu |
Biến phụ thuộc |
|||
Rủi ro tài chính Dựa trên mô hình của Alexander Bathory (1984) |
FR |
FR=SZL+SY+GL+YF+YZ |
|
Trong đó: |
SZL |
(Lợi nhuận trước thuế+khấu hao tài sản cố định+Thuế thu nhập doanh nghiệp hoãn lại)/nợ ngắn hạn |
|
SY |
Lợi nhuận trước thuế/Tổng nguồn vốn |
||
GL |
Vốn cổ phần/Nợ ngắn hạn |
||
YF |
Giá trị còn lại của tài sản cố định/nợ phải trả |
||
YZ |
Vốn lưu động/Tổng tài sản |
||
Biến độc lập |
|||
Hệ số thanh toán ngắn hạn |
CR |
CR= Tài sản ngắn hạn/ Nợ ngắn hạn |
+ |
Tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu |
ROS |
Lợi nhuận sau thuế/Doanh thu |
+ |
Hệ số vốn cố định |
FAS |
Tài sản cố định/Tổng tài sản |
+ |
Vòng quay tổng tài sản |
TAT |
Doanh thu/Tổng tài sản bình quân |
- |
Vòng quay tài sản cố đinh |
FAT |
Doanh thu/Tài sản cố định bình quân |
+ |
Vòng quay khoản phải thu |
RT |
Doanh thu/Khoản phải thu bình quân |
- |
Hệ số tự tài trợ |
ES |
Vốn chủ sở hữu/Tổng tài sản |
+ |
Qui mô doanh nghiệp |
SIZE |
Log(Tổng tài sản) |
- |
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
3.2. Dữ liệu nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ báo cáo tài chính đã kiểm toán của 124 doanh nghiệp niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn từ 2019-2023. Tác giả tính toán các biến nghiên cứu dựa trên số liệu báo cáo tài chính đã thu thập.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng cân đối với 620 quan sát, tiến hành hồi quy tuyến tính đa biến để lượng hóa sự tác động của các yếu tố lên rủi ro tài chính. Các mô hình hồi quy được sử dụng là mô hình phương pháp bình phương nhỏ nhất (Pooled OLS), mô hình tác động cố định (FEM), mô hình tác động ngẫu nhiên (REM). Sau đó nghiên cứu tiến hành kiểm định lựa chọn mô hình phù hợp nhất trong ba mô hình dựa trên kiểm định F test, Hausman test. Với kết quả mô hình phù hợp nhất, nghiên cứu tiến hành các kiểm định đa cộng tuyến thông qua hệ số nhân tử phóng đại phương sai (VIF), kiểm định phương sai thay đổi dựa trên kiểm định Kiểm định Modified Wald và dùng Woolridge test để kiểm định tự tương quan.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Thống kê mô tả
Nghiên cứu với 620 quan sát, các biến sử dụng trong mô hình được thống kê mô tả trong bảng 2. Giá trị quan sát của các biến trong nghiên cứu không đồng điều, có sự phân hóa đáng kể giữa các doanh nghiệp.
Bảng 2. Thống kê mô tả các biến
Tên biến |
Số quan sát |
Giá trị trung bình |
Độ lệch chuẩn |
Giá trị nhỏ nhất |
Giá trị lớn nhất |
FR |
620 |
4.449833 |
4.110221 |
0.1024968 |
35.83944 |
CR |
620 |
1.950293 |
1.23066 |
0.0971322 |
11.20327 |
ROS |
620 |
0.1093798 |
0.1425547 |
-0.8307786 |
1.128126 |
FAS |
620 |
0.2575191 |
0.2057506 |
0.0052091 |
0.9626766 |
TAT |
620 |
0.9382085 |
0.8770223 |
0.0159011 |
9.259308 |
FAT |
620 |
8.735045 |
14.59947 |
0.0336982 |
138.1156 |
RT |
620 |
9.098152 |
16.80052 |
0.128257 |
178.6106 |
ES |
620 |
0.4488162 |
0.217026 |
0.0377278 |
0.8984885 |
SIZE |
620 |
6.618917 |
0.6514561 |
5.429948 |
8.418292 |
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
4.2. Ma trận tương quan
Bảng 3. Ma trận hệ số tương quan giữa các biến

Bảng 3 mô tả mối tương quan giữa các biến trong mô hình, có thể thấy các biến độc lập ngoại trừ TAT, FAT, SIZE có tương quan nghịch với FR, các biến còn lại đều có tương quan thuận với FR. Đồng thời hệ số tương quan giữa các biến độc lập đều ở mức thấp (<0,8), do đó không có hiện tượng đa cộng tuyến nghiêm trọng xảy ra (Gujarati, 2003).
4.3. Kiểm định đa cộng tuyến
Bảng 4. Kết quả kiểm định đa cộng tuyến
Biến độc lập |
VIF |
1/VIF |
TAT |
1.62 |
0.616777 |
CR |
1.56 |
0.641738 |
FAT |
1.54 |
0.648826 |
ES |
1.42 |
0.702255 |
FAS |
1.37 |
0.732438 |
RT |
1.27 |
0.785549 |
ROS |
1.18 |
0.848339 |
SIZE |
1.16 |
0.858495 |
VIF trung bình |
1.39 |
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến bằng hệ số nhân tử phóng đại phương sai cho thấy VIF < 10, do đó, mô hình không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến nghiêm trọng.
4.4. Kết quả hồi quy
Bảng 5. Kết quả hồi quy
Biến |
Pooled OLS |
FEM |
REM |
FGLS |
|
CR |
2.3595*** |
2.2957*** |
2.3037*** |
2.2595*** |
|
ROS |
4.5307*** |
2.7156*** |
3.1485*** |
3.4897*** |
|
FAS |
5.9927*** |
4.5481*** |
5.1911*** |
5.1489*** |
|
TAT |
-0.14729 |
0.2076 |
-0.0017 |
-0.1302*** |
|
FAT |
.01399** |
0.0066 |
0.0060 |
0.0128*** |
|
RT |
-0.0052 |
0.0047 |
0.0004 |
-0.0037*** |
|
ES |
4.9157*** |
5.3686*** |
5.3600*** |
4.2787*** |
|
SIZE |
-0.3330*** |
-1.3694*** |
-0.5196*** |
-0.1002*** |
|
Const |
-2.1290*** |
4.8631* |
-0.7455 |
-3.0539*** |
|
Kiểm định F-test |
Prob > F = 0.0000 |
||||
Kiểm định Hausman test |
Prob>chi2 = 0.0083 |
||||
Kiểm định Modified Wald test |
Prob>chi2 = 0.0000 |
||||
Kiểm định Wooldridge test |
Prob > F = 0.4091 |
Chú thích: (*),(**),(***) thể hiện mức ý nghĩa thống kê lần lượt là 10%, 5%, 1%
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Dựa trên các kiểm định F-test, Hausman test để so sánh các mô hình hồi quy: mô hình bình phương nhỏ nhất (Pooled OLS), mô hình tác động cố định (FEM), mô hình tác động ngẫu nhiên (REM). Kết quả kiểm định cho thấy mô hình hồi quy phù hợp là mô hình tác động cố định (FEM). Kết quả kiểm định phương sai thay đổi và tự tương quan cũng chỉ ra rằng mô hình bị vi phạm kiểm định phương sai thay đổi. Sau khi tiến hành khắc phục hiện tượng phương sai thay đổi bằng hồi quy FGLS mô hình thu được các ước lượng bền vững và hiệu quả hơn, kết quả hồi quy được mô tả trong Bảng 5.
Mô hình hồi quy có thể được viết lại như sau:
FRt = 2.2595xCRt + 3.4897xROSt + 5.1489xFASt - 0.1302xTATt + 0.0128xFATt - 0.0037xRTt + 4.2787xESt - 0.1002xSIZEt - 3.0539
Kết quả ước lượng cho thấy có sự tác động cùng chiều của khả năng thanh toán ngắn hạn, tỷ suất sinh lợi trên doanh thu, hệ số vốn cố định, vòng quay tài sản cố định và hệ số tự tài trợ lên rủi ro tài chính của công ty ở mức độ tin cậy 99%. Trong khi đó, nghiên cứu cũng cho thấy có sự tác động ngược chiều của vòng quay tổng tài sản, vòng quay khoản phải thu và quy mô công ty lên rui ro tài chính của công ty, với mức ý nghĩa thống kê 1%, tương đồng với kết luận nghiên cứu của Gang & Liu (2012), Bhunia & Mukhuti (2012), Võ Minh Long (2020), Đặng Thu Hằng & ctg (2020).
5. Kết luận
Bài nghiên cứu này tập trung vào việc xác định các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra, hệ số thanh toán ngắn hạn, tỷ suất sinh lợi trên doanh thu, hệ số vốn cố định, vòng quay tài sản cố định và hệ số tự tài trợ có tác động cùng chiều đến rủi ro tài chính. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng phát hiện ra mối tương quan ngược chiều giữa vòng quay tổng tài sản, vòng quay khoản phải thu và quy mô doanh nghiệp đến rủi ro tài chính. Từ đó, doanh nghiệp cần cân đối giữa tăng trưởng và kiểm soát rủi ro, tránh lạm dụng đòn bẩy tài chính. Đồng thời, việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản, quản lý dòng tiền và khoản phải thu sẽ góp phần làm giảm rủi ro tài chính. Kết quả nghiên cứu là cơ sở hữu ích giúp nhà quản trị theo dõi, phân tích và kiểm soát các yếu tố nội tại một cách chủ động và hiệu quả hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bùi Duy Linh (2024), Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tài chính: nghiên cứu điển hình tại các doanh nghiệp vận tải và kho bãi niêm yết, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, 319(1), 54-62.
Võ Minh Long (2020), Một số nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tài chính - Nghiên cứu doanh nghiệp bất động sản niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HSX), Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 88-100.
Bathory, A. (1984), Predicting Corporate Collapse: Credit Analysis in the Determination and Forecasting of Insolvent Companies, Financial Times Business Information, London.
Bhunia, A. & Mukhuti, S. (2012), Financial risk measurement of small and medium-sized companies listed in Bombay Stock Market, International Journal of Advances in Management and Economics, 1(3), 27-34.
Dang, H.T., Phan, D.T., Nguyen, H.T. & Hoang, L.H.T. (2020), Factors affecting financial risk: Evidence from listed enterprises in Vietnam, Journal of Asian Finance, Economics and Business, 7(9), 011-018.
Fali, I., Nyor, T. & Mustapha, O.L. (2020), Financial risk and financial performance of listed insurance companies in Nigeria, European Journal of Business and Management, 12(12), 143-153.
Gang, F. & Liu, D. (2012), Empirical study on the financial risk factors for small and medium-sized enterprises: The evidence from 216 companies of small plates stock market in China, Journal of Contemporary Research in Business, 3(9), 380-387.
Gujarati, D. (2003), Basic Econometrics (4th edn), New York: McGraw-Hill.
Li, S. (2003). Future trends and challenges of financial risk management in the digital economy. Managerial Finance, 29(5), 111-125.
Napp, A.-K. (2011). Financial management in SME - The use of financial analysis for identifying analysing and monitoring internal financial risks (Master’s thesis, Aarhus University, Aarhus, Denmark).
Padash, A. & Ghatari, A.R. (2020), Toward an innovative green strategic formulation methodology: Empowerment of corporate social, health, safety and environment, Journal of Cleaner Production, 261, 121075.
Roy, K. & Bandopadhyay, K. (2021), Financial risk and firm value: is there any trade-off in the Indian context?, Rajagiri Management Journal, 16(3), 226-238.
Factors affecting financial risks companies listed on the Ho Chi Minh City Stock Exchange
Le Thi Minh1
Le Nguyen Tra Giang1
Tran Huynh Kim Thoa1
1Ho Chi Minh City University of Industry
Abstract:
This study investigates the determinants of financial risk among companies listed on the Ho Chi Minh City Stock Exchange (HSX). Using panel data from the audited annual reports and financial statements of 124 listed firms from 2019 to 2023, the analysis applies Ordinary Least Squares (OLS), Fixed Effects (FEM), Random Effects (REM), and Feasible Generalized Least Squares (FGLS) models to ensure robustness and correct for model deficiencies. The findings reveal that key financial indicators—including current ratio, return on sales, fixed asset ratio, fixed asset turnover, accounts receivable turnover, total asset turnover, net asset ratio, and firm size, significantly influence financial risk. These results provide valuable insights for financial managers, investors, and policymakers in assessing and managing corporate financial stability.
Keywords: financial risk, financial structure, HSX, Vietnam.
[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 17 năm 2025]