Hoa Kỳ hiện đang tìm cách qua mặt Tổ chức Thương mại Thế giới bằng cách thúc đẩy thành lập hai hiệp ước thương mại xuyên khu vực đầy tham vọng: Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP và Đối tác thương mại, đầu tư xuyên Đại Tây Dương TTIP. Hai hiệp ước này sẽ chiếm đến 2/3 GDP và 1/3 nhập khẩu thế giới, do đó sẽ thúc đẩy thương mại toàn cầu tiến xa hơn đến những lộ trình, tỏa thuận ưu đãi giữa các quốc gia và khu vực.
Ấn Độ và các hiệp định thương mại
Các nghiên cứu chỉ ra rằng, việc tuân thủ các quy tắc xuất xứ phức tạp để có được ưu đãi thuế quan theo thỏa thuận ưu đãi thương mại (PTA) hoặc các thỏa thuận thương mại tự do (FTA) làm tăng chi phí giao dịch thương mại. Điều này dẫn đến việc hiệu quả thương mại qua các hình thức này có những hạn chế và cũng giải thích cho việc thương mại thông qua PTA là rất thấp. Ngân hàng Phát triển châu Á ước tính giao dịch thông qua các PTAs của Ấn Độ dao động trong khoảng 5% đến 25%. Như vậy, hình thức hợp tác thương mại đa phương dựa trên sự đồng thuận trong khuôn khổ WTO sẽ hiệu quả hơn cho Ấn Độ.
Tuy nhiên điều khó khăn là tự do hóa thương mại đa phương lại tiến triển khá chậm chạp, việc nhận được sự thống nhất của 159 nước thành viên WTO là không dễ dàng. Bên cạnh đó, sự thờ ơ ngày càng tăng của các nền kinh tế lớn như Trung Quốc và Mỹ lên WTO khiến Ấn Độ có rất ít lựa chọn ngoài việc tìm kiếm các thỏa thuận thương mại song phương theo Điều XXIV của GATT 1994 và Điều V của GATS.
Hơn nữa, các nước thành viên WTO (Ấn Độ là không phải ngoại lệ) thường bị buộc phải đăng ký các PTA/ FTA đã ký để bảo vệ thị trường hiện có của họ. Ví dụ, việc ký hiệp định FTA ASEAN - Trung Quốc đã thúc đẩy FTA ASEAN-Ấn Độ. Đôi khi, cân nhắc về địa chính trị có thể thuyết phục một quốc gia tham gia vào một thỏa thuận thương mại đặc biệt, chẳng hạn như Khu vực Thương mại Tự do Nam Á (SAFTA).
Ấn Độ đã tham gia các cuộc đàm phán về Quan hệ Đối tác Kinh tế Toàn diện khu vực (RCEP) dự kiến bao gồm các nước khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, bất chấp những lo ngại của cộng đồng doanh nghiệp Ấn Độ đối với một thỏa thuận thương mại tự do trong đó có Trung Quốc. Trong bối cảnh này, điều đó là thích hợp khi nhìn lại những kinh nghiệm và kết quả đạt được của Ấn Độ trong việc thúc đẩy xuất khẩu thông qua các thỏa thuận song phương.
Trong các FTA của Ấn Độ, Hợp tác khu vực cộng đồng các nước Nam Á (SAARC), ASEAN, Nhật Bản và Hàn Quốc là những khu vực có nhiều triển vọng nhất. Với các PTA thì có PTA với Chile và PTA với Khối thương mại Mercosur (các nước Mỹ La tinh). Các chuyên gia cho rằng nhiều hiệp ước thương mại hiện có của Ấn Độ là hời hợt và phạm vi bao trùm tương đối hạn chế, ví dụ như PTA với Mercosur hoặc Chile có nhiều nội dung không cụ thể, hoặc chỉ bao gồm thương mại hàng hoá như SAFTA và FTA Ấn Độ - ASEAN; hoặc hợp tác thương mại của Ấn Độ với SAARC bị cản trở bởi sự thù địch giữa Ấn Độ và Pakistan.
Thực tế cho thấy các hiệp định thương mại với các nước ASEAN, Nhật Bản và Hàn Quốc chỉ có một chút tác động giúp đẩy mạnh xuất khẩu của Ấn Độ. Tổng thâm hụt thương mại của Ấn Độ với các nước ASEAN, Nhật Bản và Hàn Quốc đã tăng 70%, từ 16 tỷ USD trong năm 2010 lên 68 tỷ USD năm 2013. Rõ ràng việc ký kết thỏa thuận thương mại hàng hóa, trong khi liên tục hoãn thương mại dịch vụ (khu vực mà Ấn Độ có lợi thế so sánh) như Hiệp định thương mại Ấn Độ - ASEAN đã không mang lại nhiều lợi ích cho Ấn Độ.
Ngay cả các FTA bao gồm thương mại dịch vụ- như trong các Hiệp định quan hệ đối tác kinh tế toàn diện (CEPA) với Nhật Bản và Hàn Quốc của Ấn Độ - cũng có những lĩnh vực bị tác động bất lợi do những lĩnh vực này phải sử dụng nhiều những dịch vụ thuê bên ngoài. Hơn nữa, việc ký kết các thỏa thuận công nhận lẫn nhau có tiến độ chậm đã hạn chế những lợi ích mà Ấn Độ có được thông qua các thỏa thuận với Nhật Bản và Hàn Quốc.
Con đường phía trước
Việc đổ xô vào các FTA mà không tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp trong nước không giúp xuất khẩu của Ấn Độ tăng trưởng. Bài học kinh nghiệm từ tác động tiêu cực của Hiệp định Công nghệ thông tin đa phương mà Ấn Độ ký vào năm 1997 đã giúp thuế đánh vào thành phẩm được gỡ bỏ và điều này đã giúp phát triển công nghiệp phần mềm Ấn Độ, nhưng việc này cũng đã giết chết sự phát triển của ngành sản xuất thiết bị điện tử, máy tính và công nghiệp phần cứng trong nước.
Lĩnh vực sản xuất của Ấn Độ đang gặp thách thức bởi hàng nhập khẩu giá rẻ từ Trung Quốc thường được trợ cấp ngầm hoặc công khai dưới hình thức các khoản vay lãi xuất thấp, ưu đãi về nguyên liệu, đất đai và năng lượng (báo cáo của Đại diện Thương mại Hoa Kỳ). Mặt khác, Trung Quốc lại sử dụng các hàng rào phi thuế quan để hạn chế hàng xuất khẩu nước ngoài tiếp cận thị trường trong nước. Do đó FTA với Trung Quốc như dự kiến trong khuôn khổ RCEP cần được xem xét lại một cách kỹ lưỡng.
Ấn Độ không thể hưởng lợi từ việc tham gia vào mạng lưới sản xuất cùng với các nước châu Á. Việc mở cửa thương mại hơn nữa với Trung Quốc trong khuôn khổ RCEP, đặc biệt là trong sản xuất hàng hóa sẽ dẫn đến nhập khẩu nhiều hơn (so với xuất khẩu) và tác động đến cán cân thương mại của Ấn Độ. Gần đây, chi phí nhân công ở Trung Quốc có tăng hơn, nhưng điều quan trọng là phải xem xét sự khác biệt giữa sản xuất Ấn Độ với Trung Quốc mà điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, mức độ tự động hóa và tay nghề mới chỉ là hai trong số đó.
Mặc dù không có một thỏa thuận thương mại tự do, Trung Quốc vẫn chiếm hơn 50% mức thâm hụt thương mại của Ấn Độ trong giai đoạn 2012-2013. Nỗ lực thu hẹp xuất khẩu với Trung Quốc, với các mặt hàng xuất khẩu như quặng sắt, đồng và bông chiếm hơn 2/3 kim ngạch xuất khẩu nước này thì thương mại tự do với Trung Quốc sẽ chỉ làm trầm trọng thêm việc này.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Ấn Độ không đạt được gì từ hiệp định thương mại song phương. Những kết quả thu được khá rõ ràng như sự mở rộng của thỏa thuận ưu đãi thương mại Ấn Độ - Mercosur thành một CEPA chính thức, hoặc cải thiện quan hệ thương mại với Nam Á, đặc biệt là Pa-kít-xtan, Châu Phi và Cộng đồng các Quốc gia độc lập (CIS). Một hiệp định thương mại quá cảnh (trong khuôn khổ quy định của WTO) sẽ thúc đẩy thương mại và xuất khẩu nội khối SAARC. Châu Phi và Cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS) là hai thị trường nhập khẩu phát triển nhanh nhất. Trong năm 2012, nhập khẩu tăng 11,3% ở Châu Phi và tăng 6,8% ở CIS; so với Châu Á là (3,7%), Bắc Mỹ (3,1%) và châu Âu (-1,9%). Trước mắt, đây là những thị trường cần được chú trọng và đẩy mạnh cá hoạt động hợp tác thương mại.
Một chính sách thương mại đáng mơ ước của Ấn Độ là có sự kết hợp khéo léo giữa song phương và đa phương. Có được lợi thế so sánh trong lĩnh vực dịch vụ và tiềm lực về tài chính ngày càng tăng, Ấn Độ cần xác định mục tiêu đến các hiệp định thương mại toàn diện duy nhất, bao gồm hàng hóa, dịch vụ và đầu tư trong các lĩnh vực. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và các tập đoàn đa quốc gia vẫn là nguồn quan trọng của xuất khẩu.
Hơn nữa, với việc Hoa Kỳ đang nỗ lực viết lại các quy tắc thương mại thế giới trong tương lai thông qua các hiệp định thương mại quy mô lớn, Ấn Độ sẽ phải cải thiện hệ thống pháp lý càng sớm càng tốt, đặc biệt là đối với các luật định về sở hữu trí tuệ, lao động và môi trường để bảo vệ lâu dài lợi ích thương mại của nước này.