TÓM TẮT:
Xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa đang diễn ra sôi động và mạnh mẽ, tác động nhiều đến đường lối chính sách của các nước và khu vực trên thế giới, trong đó có Nga và ASEAN. Trong những năm đầu thế kỷ 21, khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung và ASEAN nói riêng đang đóng vai trò trung tâm trong nhiều mối liên kết toàn cầu và thu hút được sự quan tâm của nhiều cường quốc, trong đó có Liên bang Nga. Trong chính sách hướng Đông của mình, Nga đề cao tầm quan trọng của ASEAN, cũng như tỏ rõ thái độ thiện chí muốn hợp tác toàn diện với khu vực này, hướng đến mục tiêu phát triển nước Nga nói chung và vùng Viễn Đông nói riêng. Để mối quan hệ hợp tác giữa Nga và ASEAN ngày càng đạt kết quả tốt đẹp, cần nghiên cứu kỹ chính sách của Nga đối với khu vực này, chỉ ra những thành công và hạn chế mà mối quan hệ này đã đạt được,nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập cũng như phát triển kinh tế - xã hội của cả hai bên.
Từ khóa: Liên bang Nga, ASEAN, châu Á - Thái Bình Dương, chính sách, chính sách đối ngoại.
I. Khái niệm
1. Khái quát
Nước Nga trong giai đoạn đầu thế kỷ 21 đến nay đang từng bước khẳng định trên trường quốc tế khi là một trong 10 nước có nền kinh tế hàng đầu thế giới (theo báo cáo của CEBR - Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế, năm 2015) với mức tăng trưởng GDP hàng năm luôn đạt mức 6 - 7%. Có được kết quả này một phần lớn là nhờ chính sách đối ngoại hiệu quả, cho phép Nga đạt được sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Ngay từ những năm đầu thế kỷ XXI, do Mỹ và EU cấm vận kinh tế Nga nên buộc nước này phải xoay trục “hướng Đông” nhắm đến các cơ hội hợp tác với các quốc gia châu Á, trong đó nổi lên là các nước thuộc Đông Nam Á.
Trong nhiều thập kỷ qua, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là khu vực có tầm quan trọng đặc biệt về địa - chiến lược và địa - kinh tế, là nền kinh tế lớn thứ 7 thế giới và thứ 3 châu Á (Các số liệu lấy từ ASEANstats). Nhờ vị thế chiến lược của khu vực này mà không một cường quốc nào có thể bỏ qua “nhân tố ASEAN” trong chiến lược đối ngoại và Nga cũng không phải là một ngoại lệ. Chính Tổng thống Putin trong bài phát biểu tại Hội nghị Thượng đỉnh Nga - ASEAN tại Sochi tháng 5/2016 đã khẳng định đây là khu vực có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với Nga, đem lại cho Nga nhiều cơ hội hợp tác với thế giới nói chung và các nước phát triển nói riêng. Thiết lập quan hệ hợp tác với ASEAN không chỉ giúp Nga mở rộng thị trường buôn bán vũ khí, nguyên liệu và hàng hóa mà còn giúp quốc gia này giải quyết được nhiều vấn đề còn tồn tại, nhất là vấn đề tranh chấp lãnh thổ với Nhật Bản. Đặc biệt, từ năm 2000 trở lại đây, Liên bang Nga đánh giá cao vai trò của ASEAN trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương và tích cực gia tăng các hoạt động hợp tác ở khu vực này. Cụ thể, trong 5 năm trở lại đây, kim ngạch thương mại giữa hai bên đã tăng gấp đôi và đạt mức kỷ lục 21,5 tỷ USD trong năm 2014. Không những thế, hàng năm, Nga dành 1,5 tỷ USD cho Quỹ đối tác - đối ngoại Nga - ASEAN (Số liệu từ ASEANstats). Đó là chưa kể đến một loạt các chuyến thăm cấp nhà nước của các nhà lãnh đạo Nga đến các quốc gia ASEAN để mở rộng thêm mối quan hệ ngoại giao với các nước này.
2. Khái niệm và vai trò của hệ thống chính sách
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về chính sách. Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, chính sách là “những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ; chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc tính chất đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,…” (Tập 1, trang 475). Theo Lasswell (1951), chính sách là hoạt động thiết kế sự lựa chọn quan trọng nhất đã được thực thi đối với các tổ chức, cũng như đối với các cá nhân. Nói cách khác, chính sách phải là một quyết định đã được lựa chọn để thực hiện, chứ không phải là một dự định. Dưới góc độ xã hội học, chính sách là quá trình mang tính bắt buộc, do xã hội tạo ra và quy định những hành vi được chấp nhận và không được chấp nhận tại xã hội đó (Wheelan, 2011). Bên cạnh đó, chính sách được đề ra và thực hiện ở nhiều cấp độ và tầng nấc khác nhau, từ các tổ chức nhà nước đến các tổ chức tư nhân, tổ chức chính trị xã hội,... đều có thể hoạch định chính sách riêng nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra của tổ chức mình.
Trong hệ thống chính sách của một quốc gia, chính sách đối ngoại có vai trò vô cùng quan trọng, góp phần mở rộng mối quan hệ và tầm ảnh hưởng của quốc gia đó trong khu vực và trên thế giới (Kaarbo, Lantis và Beasley, 2002). Có thể nói, chính sách đối ngoại là tổng thể các chính sách và mối tương tác với môi trường bên ngoài phạm vi biên giới quốc gia đó. Chính sách đối ngoại của một quốc gia bao gồm nhiều vấn đề khác nhau như an ninh, kinh tế, môi trường, năng lượng, di cư, quyền con người,... (Breuning, 2007).
Chính sách đối ngoại nói chung có hai vai trò chính, bao gồm: (1) hỗ trợ các quốc gia chủ động tạo ra các mối quan hệ quốc tế, góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập của quốc gia đó với khu vực và thế giới; và (2) tạo điều kiện thuận lợi để các quốc gia nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Để phát huy hết vai trò của chính sách đối ngoại, hoạt động xây dựng chính sách của một quốc gia luôn được dựa trên hai nguyên tắc cơ bản, bao gồm: (1) tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp và công việc nội bộ của nhau; và (2) tôn trọng lẫn nhau trên cơ sở bình đẳng, các bên cùng có lợi.
Như vậy, chính sách đối ngoại là vấn đề trọng tâm trong quan hệ chính trị quốc tế của mỗi quốc gia. Hệ thống chính sách đối ngoại đúng đắn cho phép một quốc gia đạt được lợi ích mong muốn trong từng giai đoạn phát triển khác nhau. Chính vì vậy, chính sách đối ngoại ngày càng đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu đối với mỗi đất nước, đặc biệt là trong xu thế hội nhập toàn cầu như hiện nay. Hay nói một cách khác, chính sách đối ngoại là vấn đề sống còn đối với mỗi đất nước, bởi không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển nếu không có mối quan hệ với các quốc gia khác. Theo đó, để có thể xây dựng tốt quan hệ ngoại giao với các nước khác, các nhà lãnh đạo cần nắm bắt, phân tích, dự đoán kịp thời tình hình trong nước và quốc tế. Đây sẽ là căn cứ hữu ích cho hoạt động xây dựng, đổi mới phù hợp các mục tiêu, phương pháp trong chính sách đối ngoại của một quốc gia.
II. Chính sách của liên bang Nga đối với ASEAN trong giai đoạn 2000-2014
Bước sang thế kỷ 21, Tổng thống Putin một mặt tiếp tục kế thừa đường lối đa phương mang định hướng Âu - Á ở những năm cuối thế kỷ 20, mặt khác tập trung đề cao tính độc lập, thực dụng, nhưng vẫn mềm dẻo và linh hoạt trong chính sách ngoại giao nhằm phát huy tối đa nội lực và sức mạnh từ bên ngoài. Đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Nga coi đây là khu vực đóng vai trò quan trọng trong quá trình toàn cầu hóa và là động lực phát triển của nền kinh tế thế giới. Trong chính sách ngoại giao mới đối với khu vực này, Tổng thống Putin nhấn mạnh rằng Nga cần linh hoạt kết hợp lợi ích bên trong và bên ngoài để đảm bảo an ninh quốc gia, đồng thời phát triển vùng Sibiri và Viễn Đông. Hay nói cách khác, Tổng thống Putin muốn hình thành một mối quan hệ sâu sắc và cân bằng với các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung và ASEAN nói riêng, để đảm bảo sự ổn định và tiềm năng phát triển lâu dài.
Năm 2010, Nga chính thức công bố chính sách hướng Đông nhằm mục đích giảm bớt sự phụ thuộc kinh tế vào các nước phương Tây, đồng thời tận dụng tiềm năng to lớn từ các nền kinh tế đang lớn mạnh của châu Á, trong đó phải kể đến các nước thuộc khu vực ASEAN.
Thứ nhất, trong lĩnh vực chính trị, Nga coi phát triển mối quan hệ với ASEAN là bước đi quan trọng để Nga có thể cải thiện vai trò và vị trí ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Tháng 12/2005, Hội nghị thượng đỉnh Nga - ASEAN lần thứ 1 được tổ chức tại Kual Lumpur, sự kiện này đã đánh dấu một bước ngoặt trong mối quan hệ Nga - ASEAN. Tại hội nghị này, hai bên đã thông qua Kế hoạch thúc đẩy toàn diện Nga - ASEAN giai đoạn 2005-2015, bắt đầu đi vào các hoạt động hợp tác song phương trên các lĩnh vực. Năm 2011, Nga chính thức tham gia Hội nghị cấp cao Đông Á, từ đây mối quan hệ giữa Nga và ASEAN nói chung và các nước thành viên ASEAN ngày càng được củng cố và phát triển.
Thứ hai, trong lĩnh vực kinh tế, Nga tích cực các hoạt động tăng cường hợp tác song phương và đa phương với khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó tập trung vào vấn đề năng lượng. Năm 2012, ngoại trưởng Nga đã đến thăm Nhật Bản, Brunei, New Zealand, Australia và Phigi nhằm thể hiện mong muốn hợp tác với các quốc gia này. Tháng 9/2010, Nga tổ chức Hội nghị thượng đỉnh các lãnh đạo APEC tại Vladivostok và các bên, trong đó có Nga đã đạt được nhiều thỏa thuận quan trọng tại hội nghị này.
Thứ ba, trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, Nga coi khu vực Đông Nam Á là thị trường mua bán vũ khí tiềm năng nên sẽ tăng cường hoạt động xuất khẩu vũ khí và kỹ thuật quân sự. Thông qua hoạt động xuất khẩu này, Nga có ý định dần có thể can dự vào các vấn đề an ninh của khu vực châu Á - Thái Bình Dương và mở rộng quyền phát ngôn trong công việc an ninh tại khu vực này. Ngoài ra, Nga vẫn thường xuyên tham gia nhiều diễn đàn an ninh khu vực như Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Đối thoại Shangri-la, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị cấp cao Đông Á,… để tăng cường tiếng nói và tầm ảnh hưởng của mình tại khu vực này.
Tóm lại, chính sách hướng Đông của Nga là bàn đạp quan trọng, cho phép Nga xây dựng và củng cố vị trí là một cường quốc trên mọi lĩnh vực. Trong chính sách hướng Đông này, ASEAN đóng vai trò quan trọng nhờ địa thế thuận lợi, kinh tế phát triển, chính trị ổn định, là thị trường giàu tiềm năng để Nga khai thác và đầu tư. Thông qua khu vực này, Nga có thể dễ dàng xâm nhập vào thị trường châu Á - Thái Bình Dương rộng lớn, cũng như phát triển khu vực Viễn Đông của mình.
III. Những thành tựu trong chính sách ngoại giao mà Nga đang áp dụng đối với khu vực ASEAN
Thứ nhất, thành tựu trong hoạt động ngoại giao: Sự hiện diện của Nga tại khu vực Đông Nam Á được đẩy lên một bước phát triển mới thông qua một loạt các hoạt động ngoại giao nổi bật trong giai đoạn 2000 - 2014. Cụ thể: Nga chính thức tham gia Hiệp ước Hợp tác hữu nghị ASEAN; ký kết Tuyên bố chung về Hợp tác chống khủng bố; tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Nga - ASEAN; thành lập Trung tâm ASEAN tại Đại học Quan hệ Quốc tế Moscow năm 2010 nhằm thúc đẩy mối quan hệ giữa Nga và ASEAN; tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Nga - ASEAN lần thứ hai năm 2010,…
Thứ hai, thành tựu trong lĩnh vực quân sự: Nhìn chung, hợp tác quân sự của Nga với ASEAN đạt được một số thành tựu nổi bật như: giá trị hợp đồng lớn và ngày càng có xu hướng gia tăng và mở rộng phạm vi cả về không gian và nội dung hợp tác. Con số vũ khí nga cung cấp cho ASEAN đã vượt qua cả các hợp đồng vũ khí trong cùng kỳ với Ấn Độ và Trung Quốc - hai nước được Nga coi là bạn hàng chiến lược trên thị trường vũ khí. Một số quốc gia khác tại khu vực Đông Nam Á như Brunei, Singapore, Myanmar, Thái Lan cũng đã chuyển sang dùng vũ khí Nga thay vì Anh, Pháp và Mỹ. Các chuyên gia quân sự nhận định, ở thời điểm hiện tại và tương lai, vũ khí Nga sẽ là mặt hàng nóng tại thị trường Đông Nam Á.
Thứ ba, thành tựu trong lĩnh vực vận tải hàng không và chinh phục vũ trụ: Với ba hợp đồng cung cấp máy bay dân dụng cho Indonesia, Malaysia và Lào với tổng trị giá hơn 4 tỷ USD, hợp đồng phóng vệ tinh viễn thám với Indonesia, vệ tinh viễn thông vào vũ trụ năm 2006 và thực hiện chương trình đào tạo cán bộ kỹ thuật ngành Vũ trụ với Việt Nam, mối quan hệ hợp tác giữa Nga và ASEAN trong lĩnh vực vẫn tải hàng không đã ngày càng được mở rộng và phát triển. Đây là một trong những thành tựu nổi bật, củng cố thêm mối quan hệ giữa Nga và ASEAN, góp phần nâng cao vị thể của 2 khu vực trên trường chính trị thế giới.
Thứ tư, thành tựu trong lĩnh vực chính trị: Liên bang Nga liên tục khẳng định rất coi trọng chính sách hợp tác với ASEAN, ủng hộ tổ chức này trong quá trình triển khai Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025. Nga đã tích cực tham gia các cơ chế do ASEAN dẫn dắt, đóng góp cho sự hòa bình, ổn định, an ninh và phát triển thịnh vượng trong khu vực ASEAN nói riêng và châu Á - Thái Bình Dương nói chung. TS. Lê Văn Nhân - Nguyên thư ký Hội Hữu nghị Việt Nga cho biết: Nga coi ASEAN là “hạt nhân” của các quá trình hội nhập trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, vì đây là một trong những trung tâm có nhiều ảnh hưởng của chính sách thế giới. Chính vì thế, Nga ưu tiên củng cố hợp tác với ASEAN ở hướng châu Á trên nguyên tắc cùng phát triển, đồng thời tham dự tích cực vào các cơ chế chính trị và kinh tế ở khu vực này. Trước đây, mối quan hệ giữa ASEAN và Nga chủ yếu dựa trên nền tảng chính trị. Tuy nhiên, hiện nay cả hai bên cùng quan tâm đến nhiều vấn đề lớn mang tính toàn cầu và tích cực cùng nhau hợp tác trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế. Mối quan hệ hợp tác Nga - ASEAN đang ngày càng trở thành yếu tố ảnh hưởng đến tình hình chính trị toàn khu vực.
Thứ năm, thành tựu trong lĩnh vực an ninh quốc phòng: Nga và ASEAN đã đặt ra nhiều phương hướng nhằm phát triển mối quan hệ hợp tác đôi bên cùng có lợi trong lĩnh vực chống khủng bố quốc tế, an ninh hàng hải,… Ngoài ra, việc Nga tiếp tục mở rộng các cuộc tiếp xúc song phương với các quốc gia thành viên ASEAN. Điều này cho phép khu vực ASEAN nâng cao tiềm lực quân sự, quốc phòng, góp phần giữ vững trật tự hòa bình thế giới.
Hiện nay, Nga và ASEAN tích cực hợp tác và hỗ trợ nhau trong các vấn đề khu vực và quốc tế như chống khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia, các tranh chấp chủ quyền trên biển Đông, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các quốc gia trong hiệp hội. Tiến sĩ Mai Nguyễn Tuyết Hoa - Trưởng phòng Khoa học công nghệ và Hợp tác phát triển, Khoa quốc tế, ĐHQG Hà Nội, trả lời phỏng vấn của nghiên cứu sinh thực hiện, cho biết: Hiện nay Nga và ASEAN khuyến thích thường xuyên tổ chức các cuộc họp tham vấn giữa các quan chức cao cấp của hai bên về tội phạm xuyên quốc gia (SOMTC) và Nhóm Công tác chung về khủng bố và Tội phạm quốc tế. Đây là hoạt động đã được đề cập trong Tuyên bố chung về hợp tác chống khủng bố quốc tế được ký tại Indonesia năm 2004 và Kế hoạch hành động của ARF về chống khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia 2015-2017 được thông qua tại ARF lần thứ 2 ở Malaysia vào tháng 8/2015.
Thứ sáu, thành tựu trên lĩnh vực ngoại giao: Nga tích cực tham gia gần như toàn bộ các hoạt động của ASEAN: Gia nhập APEC, ký Hiệp ước thân thiện và hợp tác TAC (2004), tham gia Diễn đàn an ninh khu vực (ARF), ký Tuyên bố chung về quan hệ đối tác toàn diện và năng động (2005), Hiệp định hợp tác kinh tế và phát triển Liên bang Nga - ASEAN giai đoạn 2005 - 2015 và Chương trình hành động toàn diện thực hiện hợp tác kinh tế và phát triển giai đoạn 2005 - 2015. Qua đó, hai bên đã ký kết một loạt các văn kiện quan trọng như: Kế hoạch Hành động toàn diện ASEAN - Nga giai đoạn 2016-2020, Báo cáo Khuyến nghị chính sách của Nhóm các Nhân vật nổi tiếng ASEAN - Nga, Kế hoạch hành động ASEAN - Nga về khoa học, công nghệ và đổi mới, Báo cáo tình hình thực hiện Chương trình làm việc về thương mại và đầu tư ASEAN - Nga giai đoạn 2016-2020, Chương trình làm việc ASEAN - Nga về hợp tác nông nghiệp và an ninh lương thực,...
IV. Giải pháp
Trên cơ sở thực trạng chính sách của Liên bang Nga đối với ASEAN thể hiện qua những thành tựu và tồn tại trên đây, nghiên cứu gợi ý một số giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả của các chính sách này, góp phần đưa mối quan hệ Nga - ASEAN ngày càng bền chặt và vững mạnh hơn.
Thứ nhất, tăng cường hợp tác trên lĩnh vực chính trị và an ninh: Hoạt động này sẽ làm cơ sở cho hợp tác toàn diện giữa Nga và ASEAN trong thời gian tới. Hai bên cần thống nhất về cách tiếp cận đối với các vấn đề an ninh, đồng thời gắn hợp tác trên lĩnh vực chính trị - an ninh với hợp tác kinh tế cũng như hợp tác trong các lĩnh vực khác nhằm nâng cao vị thế của Nga ở Đông Nam Á và vị thế của ASEAN ở Nga. Bên cạnh đó, cần thường xuyên tổ chức các cuộc họp giữa các nhà lãnh đạo cấp cao của hai bên về chống khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia và an ninh mạng.
Thứ hai, đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực thương mại và đầu tư: Hiện nay, hợp tác trong lĩnh vực thương mại và đầu tư giữa Nga và ASEAN vẫn còn chưa tương xứng với tiềm năng của hai bên nên Nga và ASEAN cần sớm nghiên cứu Hiệp định thương mại tự do Nga - ASEAN. Đây sẽ là một hướng ưu tiên và giải pháp toàn diện nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế giữa hai bên. Trong Hiệp định này, Nga và ASEAN nên xác định những danh mục ưu tiên tự do hóa dựa trên những đặc điểm kinh tế của mỗi bên để mang lại kết quả tốt nhất. Bên cạnh đó, Nga và ASEAN cũng cần đa dạng hóa những mặt hàng và dịch vụ của mình, tập trung vào các sản phẩm có giá trị thặng dư cao và tính cạnh tranh lớn. Chẳng hạn, các nước ASEAN sẽ tập trung vào các sản phẩm kỹ thuật điện tử và gia dụng, công nghệ thông tin, trang thiết bị công nghiệp,... còn Nga sẽ tập trung vào những sản phẩm, dịch vụ liên quan đến hàng không vũ trụ, năng lượng, công nghệ sinh học,...
Thứ ba, khuyến khích các hoạt động hợp tác trong lĩnh vực kinh tế ở nhiều cấp độ từ doanh nghiệp đến các bộ ban ngành của các nước ASEAN và Nga. Chính phủ hai bên cần tạo nhiều cơ chế và điều kiện thuận lợi để khuyến khích các địa phương, ban ngành chủ động trong các hoạt động hợp tác. Song song với đó là xây dựng hệ thống thông tin rõ ràng, đáng tin cậy về những điều kiện tài chính, luật kinh doanh giữa các chủ thể ở Nga và ASEAN. Với hệ thống này, các bên có thể trao đổi thường xuyên thông tin cho nhau, hiểu rõ được những yêu cầu của đối tác để chủ động đưa ra các hoạt động hợp tác phù hợp nhất. Ngoài ra, cần phải cải thiện môi trường đầu tư, đặc biệt với các lĩnh vực mà hai bên cùng quan tâm để giảm bớt các thủ tục rườm rà, tạo điều kiện thuận lợi để các hoạt động kinh tế song phương đi vào thực chất và đạt hiệu quả cao.
Thứ tư, tăng cường hỗ trợ phát triển giao lưu văn hóa, hợp tác giáo dục và đào tạo: ASEAN và Nga cần đầu tư nhiều hơn cho Quỹ Phát triển hợp tác Nga - ASEAN cả về tài chính và đa dạng hóa các hoạt động giao lưu giữa hai nước. Hàng năm, hai bên cần tổ chức các ngày văn hóa của nhau ở mỗi nước. Chẳng hạn như các festival về văn hóa dân tộc, tuần lễ văn hóa, tuần lễ phim,... Ngoài ra, Nga và ASEAN cần tăng cường tiếp xúc con người thông qua các hoạt động trao đổi nguồn nhân lực trong nhiều lĩnh vực như văn hóa, nghệ thuật, âm nhạc, múa, báo chí,... hay tổ chức các triển lãm giáo dục dưới dạng các hội nghị, hội thảo,... để sinh viên hai bên có cơ hội tìm hiểu văn hóa giáo dục và giao lưu với nhau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Lasswell H (1951), The policy orientation, In Lerner & Lasswell (eds),The Policy Sciences, pp. 3 - 15, Stanford University Press.
2. Wheelan C (2011), Introduction to Public Policy, New York.
3. Kaarbo, J., Lantis, J., & Beasley, R.(2002).The Analysis of Foreign Policy in Comparative Perspective. InForeign Policy in Comparative Perspective: Domestic and International Influences on State Behavior.CQ Press.
4. Breuning (2007), Foreign Policy Analysis, Palgrave Macmillan US.
5. Cổng Thông tin điện tử Ban thư ký ASEAN Quốc gia Việt Nam: http://asean.mofa.gov.vn.
6. Cổng thông tin điện tử Bộ ngoại giao Việt Nam: http://www.mofahcm.gov.vn.
7. Cổng thông tin điện tử Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam: http://chinhphu.vn.
8. Cổng thông tin điện tử Nghiên cứu quốc tế: http://nghiencuuquocte.org/.
9. Cổng thông tin điện tử Tổng cục Thống kê: http://www.gso.gov.vn.
RUSSIAN POLICY TOWARDS ASEAN IN THE PERIOD OF 2000 - 2014 AND SOLUTIONS FOR THE COMMING TIME
MA. NGUYEN THI PHUONG HOA
International School, Vietnam National University - Hanoi
ABSTRACT:
Trends of gobalization and regionalization are happening vibrantly and powerfully and influencing many policy directions of countries and regions around the world, including Russia and ASEAN. In the early years of the 21st century, the Asia-Pacific region in general and ASEAN in particular are playing a central role in many global linkages and attracting the attention of many great powers including Russia. In its Eastern policy, the Government of Russia emphasizes the importance of ASEAN as well as its willingness to cooperate comprehensively with this region with aims of developing Russia in general and the Far East in particular. In order to make the cooperation between Russia and ASEAN more fruitful, it is necessary to scrutinize Russia's policy towards ASEAN and point out successes and limitations that this relationship has achieved in order to meet the needs of integration as well as socio-economic development of both Russia and ASEAN.
Keywords: Russian Federation, ASEAN, Asia-Pacific, policy, foreign policy.
Xem tất cả ấn phẩm Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 08 tháng 07/2017 tại đây.