Giá trị sản xuất công nghiệp từ năm 1991 đến năm 2008 có thể được coi là tăng trưởng rất ngoạn mục và hiếm thấy. “Ngoạn mục” được xét về ba khía cạnh: tăng với tốc độ hai chữ số (bình quân 1991- 2008 tăng 14,8%/năm, cao hơn hẳn tốc độ tăng 5,5%/năm trong thời kỳ 1977- 1990); tăng liên tục; tăng trong thời gian dài (18 năm). “Hiếm thấy” khi xét về ba mặt: hiếm thấy so với các thời kỳ trước đây của bản thân ngành Công nghiệp; hiếm thấy so với các ngành, các lĩnh vực khác; hiếm thấy so với ngành Công nghiệp của nhiều nước.
Công nghiệp ngoài nhà nước đã nhiều năm nay có tốc độ tăng cao nhất trong ba khu vực và hiện đã chiếm 35,5% giá trị sản xuất toàn Ngành. Kết quả trên do ba nguyên nhân: có nhiều doanh nghiệp hoặc bộ phận doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi sở hữu; nhiều cơ sở công nghiệp ngoài nhà nước mới ra đời và đi vào hoạt động; khu vực này đã biết hướng và tận dụng thị trường nội địa với dân số đông, nhu cầu đang tăng, nhưng đòi hỏi về chất lượng, giá cả chưa cao, do đa số người tiêu dùng ở nông thôn. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng cao thứ hai và hiện đang chiếm tỷ trọng cao nhất trong toàn Ngành (41,5%). Đạt được kết quả trên do nhiều nguyên nhân. Khu vực này có nhiều lợi thế về vốn, thiết bị- công nghệ, quảng cáo, tiếp thị, tiêu thụ. Năng lực sản xuất được tăng cường do có thêm các dự án mới và dự án cũ bổ sung vốn. Khu vực này được hưởng nhiều chính sách thông thoáng và ưu đãi; trong thời gian dài được bảo hộ. Khi Việt Nam mở cửa, hội nhập lại được hưởng lợi từ hai phía: ở nước ta được hưởng môi trường kinh doanh thuận lợi hơn; ở nước ngoài khi xuất khẩu được cắt giảm thuế quan và phi thuế quan. Hai khu vực này với tỷ trọng lớn, tốc độ tăng cao đã trở thành động lực tăng trưởng cho công nghiệp nước ta.
Tăng trưởng công nghiệp đạt được ở hầu hết các địa bàn. Nét mới trong một số năm nay là sự phát triển công nghiệp đã chuyển dần từ các thành phố lớn, các khu đô thị sang các tỉnh lân cận. Việc chuyển dịch này có tác động hai mặt. Một mặt, các tỉnh tận dụng được lợi thế có diện tích xây dựng rộng hơn, có giá đất, giá nhân công rẻ hơn, ách tắc giao thông thấp hơn, điều kiện xử lý môi trường dễ hơn, ít tốn kém hơn, nhưng quan trọng hơn là giúp các tỉnh này chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu hút lao động từ nông nghiệp... Mặt khác, các thành phố lớn, các khu đô thị có điều kiện chuyển sang phát triển công nghiệp- kỹ thuật cao, phát triển các ngành dịch vụ.Tăng trưởng công nghiệp nhìn chung đạt được ở nhiều sản phẩm chủ yếu. Tuy nhiên cũng có những xu hướng khác nhau như, công nghiệp khai thác đang có xu hướng tăng chậm lại để tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên. Công nghiệp chế biến, đặc trưng chủ yếu của ngành công nghiệp, tăng cao hơn và chiếm tỷ trọng ngày một lớn. Công nghiệp điện, ga, nước, tựng thấp hơn tốc độ trung bình của toàn Ngành.
Tăng trưởng cao trong giai đoạn đầu khi đất nước chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH là cần thiết. Nhưng đất nước đã ở vào thời điểm, nếu chất lượng tăng trưởng thấp, thì tốc độ tăng trưởng sẽ không còn tiếp tục cao lên, mà ngay cả tăng trưởng với tốc độ như cũ cũng không duy trì được. Bài học của nhiều nước cũng cho thấy, việc đạt được mục tiêu trong dài hạn không chỉ là ở tốc độ tăng trưởng cao trong ngắn hạn, mà quan trọng hơn là ở độ bền của tốc độ đó, tức là tăng trưởng bền vững, tức là nói đến chất lượng tăng trưởng.
Thực tế tăng trưởng công nghiệp trong 9 tháng đầu năm 2008 đã bị chậm lại. Tăng trưởng giá trị tăng thêm do công nghiệp tạo ra 9 tháng năm nay chỉ đạt 8,90%, thấp hơn con số 10,16% của cùng kỳ năm trước, trong đó, chỉ có công nghiệp điện, ga, nước tăng cao hơn (12,29% so với 11,01%), còn công nghiệp chế biến tăng thấp hơn (11,45% so với 12,64%). Riêng công nghiệp khai thác mỏ còn bị giảm (giảm 4,69% so với tăng 0,25%). Nếu xét theo yếu tố, tăng trưởng giá trị tăng thêm của tăng trưởng bị chậm lại, do tổng giá trị sản xuất công nghiệp tăng chậm lại và do chi phí trung gian công nghiệp tăng lên.
Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất toàn ngành Công nghiệp 9 tháng năm 2008 chỉ đạt 16%, thấp hơn tốc độ tăng cùng kỳ của nhiều năm trước (năm 2005 tăng 16,5%, của năm 2006 tăng 16,8%, của năm 2007 tăng 17,1%). Sự chậm lại so với cùng kỳ năm trước diễn ra ở tất cả các loại hình kinh tế, như: doanh nghiệp nhà nước tăng 9% so với tăng 10,3% (trong đó trung ương tăng 9% so với 13,2%, địa phương giảm 1,7% so với tăng 3,8%); công nghiệp ngoài quốc doanh tăng 20,7% so với tăng 20,9%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17,9% so với tăng 18,3%, trong đó các ngành khác của khu vực này tăng 20,4% so với tăng 23,4%. Diễn biến trên cũng diễn ra ở một số địa bàn, như Vĩnh Phúc (tăng 32,6% so với tăng 44,3%), Quảng Ninh (tăng 13,7% so với tăng 16%), Đồng Nai (tăng 18,6% so với tăng 22%), Cần Thơ (tăng 15,1% so với tăng 17,3%),... Đối với một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu cũng có tình hình tương tự, như than đá (tăng 1,6% so với tăng 12,3%), khí đốt (tăng 7,6% so với tăng 9%), khí hoá lỏng (giảm 18,3% so với tăng 10%), bia (tăng 15,8% so với 19,7%), vải dệt (giảm so với tăng 10,4%), giấy bìa (tăng 11,6% so với tăng 14,4%), phân hoá học (giảm 1,8% so với tăng 13,4%), xi măng (tăng 10,9% so với tăng 11,8%), thép tròn (giảm 1% so với tăng 10,3%), xe máy (tăng 7,5% so với tăng 27%),...
Không những giá trị sản xuất tăng chậm lại, mà chi phí trung gian cũng có xu hướng tăng lên. Chi phí trung gian tăng lên do 3 nguyên nhân.
Thứ nhất, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo xu hướng: những ngành có tỷ lệ chi phí trung gian thấp (những ngành khai thác như than, dầu thô,...) tăng thấp, thậm chí còn bị giảm; những ngành tăng cao lại chủ yếu là công nghiệp gia công, công nghiệp có tỷ lệ chi phí trung gian cao.
Thứ hai, chi phí nguyên nhiên vật liệu tăng cao do giá tăng cao, nhất là đối với những sản phẩm có nguyên vật liệu nhập khẩu, có khối lượng vận tải lớn,...
Thứ ba, chi phí vốn tăng cao do lãi suất đi vay tăng, nhất là đối với những doanh nghiệp có tỷ trọng vốn tự có thấp, vốn đi vay lớn. Gần đây, lãi suất cho vay của nhiều ngân hàng đã giảm, nhưng vẫn còn cao, việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng vẫn còn khó khăn.
Cùng với chi phí đầu vào gia tăng thì việc tiêu thụ cũng không hoàn toàn thuận lợi. Xuất khẩu tăng cao chủ yếu do yếu tố giá xuất khẩu tăng và có một phần do giá trị hàng hoá tái xuất. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá của 8 mặt hàng (dầu thô, than đá, gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, chè) và giá trị hàng hoá tái xuất, thì lượng xuất khẩu chỉ tăng 14,8%. Đặc biệt là tiêu thụ trong nước có tốc độ tăng chỉ bằng nửa các năm trước (tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 9 tháng năm nay so với cùng kỳ chỉ tăng xấp xỉ 6%). Nếu tính theo tháng, thì tốc độ tăng đã giảm nhanh qua các tháng (tháng 1 tăng 11,7%, tháng 2 tăng 17,8%, tháng 3 tăng 8%, tháng 4 tăng 7,4%, tháng 5 tăng 4,2%, tháng 6 tăng 3,7%, tháng 7 tăng 1,3%, tháng 8 tăng 2,3%, tháng 9 tăng 2,2%).
Qua phân tích về tình hình tăng trưởng của ngành Công nghiệp cho thấy, bên cạnh những yếu tố tích cực, còn tiềm ẩn những bất cập.
Than xuất khẩu với khối lượng lớn và tăng cao nhưng điện phải nhập khẩu với giá cao. Tỷ trọng diện tích đất lâm nghiệp lớn (43,6%), nhưng vẫn phải nhập khẩu hàng trăm nghìn tấn bột giấy, gần 1 triệu tấn giấy. Là nước nông nghiệp, nhưng thức ăn chăn nuôi phải nhập khẩu lớn tới hơn 1 tỷ USD.
Chưa có đầu tư cho công nghiệp hỗ trợ nên các ngành như: dệt may, giày dép, có đến 80% nguyên phụ liệu phải nhập khẩu. Công nghiệp còn mang nặng tính gia công, như máy tính, sản phẩm nhựa, sản phẩm gỗ, ô tô, xe máy, máy điều hoà, máy giặt, tủ lạnh,..., làm cho giá trị tăng thêm thấp.
Nhập siêu gia tăng do hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng sản xuất trong nước thấp, vừa mất thị phần tiêu thụ, vừa gây khó khăn cho cân đối kinh tế vĩ mô. Hiệu quả và sức cạnh tranh thấp do hiệu quả đầu tư, trình độ công nghệ và năng suất lao động thấp. Hiệu quả đầu tư thể hiện ở hệ số ICOR. Năm 2000, vốn đầu tư công nghiệp so với giá trị tăng thêm của công nghiệp là 40,22%, tăng trưởng giá trị tăng thêm công nghiệp là 10,78%, hệ số ICOR là 3,73 lần; Năm 2007, các số liệu tương ứng là 52,2%, 10,2% và 5,12 lần. Điều đó chứng tỏ hiệu quả đầu tư giảm: để tăng trưởng 1% giá trị tăng thêm, cần đầu tư cho công nghiệp cao hơn, tức là tốn nhiều vốn hơn. Năng suất lao động công nghiệp tuy cao nhất trong các nhóm ngành, nhưng nếu tính ra USD cũng còn thấp (bình quân 1 lao động công nghiệp 1 năm là 60,4 triệu đồng, tương đương 3.754 USD) và tỷ trọng lao động công nghiệp thấp (14,9%), nên tác động chưa lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng công nghệ tiên tiến mới đạt trên dưới 20%, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực.
Còn nhiều vấn đề quan trọng là các vấn đề an sinh xã hội trong công nghiệp, thu nhập, phúc lợi chưa cao. Phát triển công nghiệp chưa đi đôi với việc bảo vệ môi trường mà điển hình là vụ Vedan xả nước thải ra sông Thị Vải vừa được các cơ quan chức năng phát hiện và xử lý là một bằng chứng rõ nét nhất. Đã đến lúc cần phải xem xét lại chính sách phát triển công nghiệp sao cho chất lượng tăng trưởng bền vững đảm bảo được môi trường dân sinh cho con người.