TÓM TẮT:

Nghệ An có vị trí chiến lược với địa hình đa dạng, có biển đảo, đồng bằng, trung du và miền núi, hệ thống giao thông đầy đủ, kết nối quốc tế. Nghệ An có nhiều Khu di tích lịch sử đặc biệt cấp Quốc gia và với vị trí địa lý thuận lợi nằm ở trung tâm khu vực Bắc Trung Bộ để có thể liên kết vùng trong phát triển du lịch. Đây sẽ là những điều kiện rất thuận lợi và tạo cơ hội để phát triển ngành Du lịch của tỉnh Nghệ An. Sự phát triển du lịch của Nghệ An trong thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, nhưng vẫn còn chưa tương xứng với tiềm lực hiện có. Bài viết nghiên cứu đánh giá tiềm năng phát triển du lịch tỉnh Nghệ An và đề xuất một số khuyến nghị chính sách để ngành Du lịch Nghệ An phát triển lên một tầm cao mới trong thời gian tới.

Từ khóa: tiềm năng du lịch, giải pháp chính sách phát triển du lịch, tỉnh Nghệ An.

1. Đặt vấn đề

Nghệ An là một tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ, có diện tích lớn nhất cả nước, với 16.490 km2, dân số hơn 3,4 triệu người bao gồm 6 dân tộc Kinh, Thái, Thổ, Hơ Mông, Khơ Mú, Ơ Đu. Nghệ An có địa hình tự nhiên đa dạng gồm cả rừng núi, đồng bằng, biển và hải đảo với nhiều cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ nên thơ, là điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung và du lịch nói riêng. Tuy nhiên, sự phát triển du lịch vẫn chưa tương xứng với tiềm lực hiện có, hiệu quả khai thác chưa cao, chưa xứng tầm với sự đầu tư cũng như kỳ vọng của người dân. Vì vậy, cần phải đánh giá một cách chính xác tiềm năng du lịch của Nghệ An và có những giải pháp chính sách mang tính đột phá để đưa du lịch Nghệ An phát triển thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn và trở thành một trung tâm du lịch vùng Bắc Trung Bộ đẳng cấp, hấp dẫn đối với khách du lịch trong nước và quốc tế.

2. Đánh giá tiềm lực phát triển du lịch của tỉnh Nghệ An

2.1. Tiềm lực về điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch

- Tiềm lực về đặc điểm điều kiện tự nhiên

Nghệ An nằm ở vùng Bắc Trung bộ của Việt Nam, có tọa độ địa lý từ 18033' đến 20000' vĩ độ Bắc và từ 103052' đến 105048' kinh độ Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Thanh Hóa, phía Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía Tây giáp nước bạn Lào, phía Đông giáp với biển Đông. Nghệ An có địa hình tự nhiên đa dạng gồm cả rừng núi, đồng bằng, biển và hải đảo với nhiều cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ nên thơ, là điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung và du lịch nói riêng. Địa hình Nghệ An gồm có núi, đồi, thung lũng. Độ dốc thoải dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam. Giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường không đều thuận lợi: có quốc lộ 1A và tuyến đường sắt Bắc Nam chạy qua tỉnh dài 94km, có cảng biển Cửa Lò, sân bay Vinh. Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nên tỉnh Nghệ An chịu sự tác động trực tiếp của gió mùa Tây - Nam khô và nóng (từ tháng 4 đến tháng 8) và gió mùa Đông Bắc lạnh, ẩm ướt (từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau). Với các đặc điểm điều kiện địa lý trên rất thuận lợi cho Nghệ An để phát triển du lịch biển, đảo và các loại hình du lịch sinh thái, du lịch trải nghiệm, khám phá.

- Tiềm lực về tài nguyên du lịch tự nhiên

Tài nguyên du lịch thiên nhiên của Nghệ An rất đa dạng, phong phú với bờ biển dài (82km), nhiều bãi biển đẹp và hấp dẫn du khách như Cửa Lò, Bãi Lữ, Quỳnh Phương, Diễn Thành, Cửa Hiền,... có nguồn nước sạch, sóng không lớn, độ sâu thoải, độ mặn thích hợp, ở vị trí thuận lợi về giao thông; nhiều hang động, thác nước thu hút khách du lịch như Hang Bua, Thẩm Ồm, Thẩm Chàng (huyện Quỳ Châu), thác Khe Kèm (huyện Con Cuông), thác Sao Va, thác Bảy tầng (huyện Quế Phong), đỉnh Puxailaileng, cổng trời Mường Lống (huyện Kỳ Sơn), rừng săng lẻ (huyện Tương Dương), đảo chè Thanh Chương...

Nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên của Nghệ An khá đa dạng, trong đó nổi bật là hệ thống rừng nguyên sinh ở khu vực phía Tây Nghệ An, hình thành Khu dự trữ sinh quyển thế giới lớn nhất Đông Nam Á (hơn 1.300 km2 mà vùng lõi là Vườn quốc gia Pù Mát, Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống, Pù Hoạt) đã được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới năm 2007. Vườn Quốc gia Pù Mát, với diện tích phần lớn nằm ở huyện Con Cuông, đang là điểm đến của du khách ưa thích khám phá thiên nhiên, đi bộ, chèo thuyền, trải nghiệm văn hóa bản địa của đồng bào các dân tộc thiểu số và homestay.

Bên cạnh đó, Nghệ An còn có hệ thống hang động tương đối phong phú, độc đáo, trong đó có một số hang động đã phát hiện được các di tích khảo cổ về cuộc sống của người Việt cổ cách đây hàng chục vạn năm, như: hang Thẩm Ồm, hang Cỏ Ngùn (Quỳ Châu), hang Poòng (Quỳ Hợp),... Đặc biệt, có Hang Bua ở huyện Quỳ Châu, đã từng đón Vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương trong chuyến kinh lý Nghệ An, để cùng tham dự một lễ hội với những sắc màu văn hóa mang đậm yếu tố tâm linh và huyền thoại về vùng đất, con người miền Tây hào phóng mến khách.

2.2. Tiềm lực về kinh tế - xã hội

Nghệ An là địa phương liên tiếp trong 3 năm từ 2022-2024 nằm trong top những địa phương dẫn đầu cả nước về thu hút FDI. Nghệ An đặt mục tiêu đến năm 2025 không chỉ duy trì vị thế, mà còn nâng tầm chất lượng dòng vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng hai con số đầy ấn tượng... Đặc biệt trong năm 2024, tỉnh Nghệ An đã thu hút hơn 1,74 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tăng 8,8% so với năm 2023. Có 19 dự án cấp mới với tổng vốn đăng ký 867,8 triệu USD; 14 dự án điều chỉnh tăng vốn với tổng cộng 881,76 triệu USD. Thành tựu này đã đưa tỉnh Nghệ An xếp thứ 8/63 tỉnh, thành phố trong cả nước về thu hút FDI, đồng thời đánh dấu năm thứ ba liên tiếp tỉnh nằm trong top 10 địa phương dẫn đầu cả nước về lĩnh vực này. Khu kinh tế Đông Nam đóng vai trò động lực thúc đẩy thu hút đầu tư, phát triển đưa Nghệ An lọt tốp 8 địa phương thu hút đầu tư FDI lớn nhất cả nước, trong đó có nhiều nhà đầu tư về điện tử, công nghệ, năng lượng xanh hàng đầu thế giới, (Luxshare - ICT, Goertek, Everwin, Foxconn...).

Hiện nay, tỉnh Nghệ An là điểm đến đầu tư hấp dẫn của nhiều tập đoàn lớn từ khắp nơi trên thế giới. Trong số các nhà đầu tư, Hồng Kông dẫn đầu với tổng vốn đăng ký 1,925 tỷ USD, tiếp theo là Trung Quốc (1,313 tỷ USD), Singapore (1,097 tỷ USD), Đài Loan (625,65 triệu USD), Thái Lan (185,03 triệu USD), Nhật Bản (145,11 triệu USD), Hàn Quốc (114,86 triệu USD) và Ấn Độ (28 triệu USD).

Ngoài ra, Nghệ An có nhiều cơ chế chính sách riêng đã được Bộ Chính trị thông qua và Quốc hội ban hành để hỗ trợ thúc đẩy Nghệ An phát triển, như: Nghị quyết số 36/2021/QH15 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Nghệ An. Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 18/7/2023 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển tỉnh Nghệ An đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Dự thảo Nghị quyết về thí điểm bổ sung một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Nghệ An trước Quốc hội, để thể chế hóa Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 18/07/2023 của Bộ Chính trị nhằm phát huy mọi tiềm năng, lợi thế để phát triển tỉnh Nghệ An nhanh và bền vững, phấn đấu thực hiện mục tiêu của Bộ Chính trị đề ra.

Trong giai đoạn 2021-2024, tốc độc tăng trưởng GRDP của Nghệ an đều tăng qua các năm, cụ thể năm 2021 tăng 6,20%, là mức tăng trưởng ấn tượng trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, với vị trí đứng thứ 3 khu vực Bắc Trung Bộ và thứ 22 của cả nước. Năm 2022, GRDP Nghệ An đạt 9,08%, đứng thứ 2 khu vực Bắc Trung Bộ và thứ 22 của cả nước, đây cũng là năm có mức tăng cao nhất trong 12 năm qua (từ năm 2011 đến năm 2022). Năm 2023, GRDP Nghệ An đạt 7,14%, là mức tăng trưởng đứng thứ 3 khu vực Bắc Trung bộ và thứ 26 của cả nước. Năm 2024, với sự nỗ lực, GRDP bứt phá với tốc độ cao trong những tháng cuối năm, cán đích tăng trưởng 9,01%, là mức tăng trưởng đứng thứ 2 khu vực Bắc Trung bộ và thứ 13 của cả nước. Điều này cho thấy, tỉnh Nghệ An đang vươn mình trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội và tạo điều kiện cho phát triển du lịch lên một tầm cao mới.

2.3. Tiềm lực về cơ sở vật chất, nguồn lực đầu tư và nguồn nhân lực

Nghệ An cũng được xem là địa phương có hệ thống cơ sở lưu trú đa dạng. Nghệ An có đầy đủ các cơ sở lưu trú, với số liệu năm 2024 là 2 khách sạn hạng 5 sao và tương đương; 7 khách sạn hạng 4 sao và tương đương; 22 khách sạn hạng 3 sao và tương đương. Tổng số nhà hàng trên địa bàn hiện nay là trên 400 cơ sở, trong đó có trên 200 cơ sở có sức chứa trên 100 khách. Các công trình vui chơi giải trí trên địa bàn tỉnh Nghệ An cũng khá đa dạng, với nhiều hình thức. Tuy nhiên, nhóm các công trình vui chơi giải trí phục vụ cho khách du lịch còn rất hạn chế, chủ yếu là các cơ sở thể thao như sân golf; thiếu các cơ sở vui chơi về đêm. Ngoài lợi thế về dịch vụ vận chuyển của thành phố lớn, Nghệ An cũng cơ bản đã phát triển được dịch vụ vận chuyển khách du lịch chuyên nghiệp. Nguồn nhân lực du lịch có chất lượng cao, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 75% và thường xuyên được tổ chức đào tạo bổ sung kỹ năng nghề.

Bảng 1. Cơ sở du lịch và lao động du lịch giai đoạn 2018-2023
của tỉnh Nghệ An

Giai đoạn 2021-2024, nguồn vốn đầu tư từ NSNN (ngân sách nhà nước) cho PTDL (phát triển du lịch) đạt 623,562 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 3,95% trong tổng số VĐT (vốn đầu tư) cho du lịch và 0,16% trên tổng VĐT toàn xã hội tỉnh Nghệ An. (Bảng 2)

 

3. Một số khuyến nghị giải pháp chính sách phát triển du lịch

Tiềm lực để phát triển du lịch của tỉnh Nghệ An rất lớn, tuy nhiên kết quả phát triển du lịch vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế; vai trò “mũi nhọn” trong nền kinh tế chưa thực sự rõ nét. Sản phẩm du lịch tuy đã cải thiện nhưng chưa tạo bước đột phá, chưa có sản phẩm tạo thương hiệu đặc trưng cho du lịch Nghệ An. Sản phẩm du lịch ít được đổi mới, còn trùng lặp với địa phương khác, dẫn tới sức cạnh tranh còn thấp; thiếu các dịch vụ vui chơi giải trí, mua sắm để tăng thời gian lưu trú, mức chi tiêu của du khách; tính mùa vụ còn cao; chưa thu hút được các dòng khách quốc tế lớn, ổn định. Kết cấu hạ tầng có mặt chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển du lịch; liên kết phát triển du lịch còn yếu; tính chuyên nghiệp của nguồn nhân lực du lịch còn hạn chế, thiếu hụt. Văn hóa du lịch chưa phát triển xứng tầm, đặc sắc, chưa phát huy hết tinh thần trách nhiệm của người dân trong công tác an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, văn hóa ứng xử. Công tác quản lý nhà nước về du lịch chưa thực sự bao quát, sự quan tâm vào cuộc phối hợp của ngành du lịch, các ngành, địa phương chưa thực sự chặt chẽ, thiếu tính chủ động. Vì vậy, tác giả khuyến nghị một số giải pháp chính sách sau:

Thứ nhất, xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù có đẳng cấp mang thương hiệu du lịch Nghệ An. Theo đó, tập trung xây dựng khu du lịch Kim Liên với trọng tâm là Khu di tích Kim Liên trở thành khu du lịch quốc gia là sản phẩm du lịch đặc thù của Nghệ An. Đề xuất và phối hợp với Bộ Xây dựng và các Bộ, ngành Trung ương triển khai lập Quy hoạch chung xây dựng Khu du lịch quốc gia Kim Liên, trên cơ sở đó thu hút đầu tư cơ sở lưu trú tiêu chuẩn 4 sao, 5 sao; cơ sở kinh doanh ăn uống, mua sắm, thể thao, vui chơi giải trí, chăm sóc sức khỏe đạt chuẩn phục vụ khách du lịch. Đẩy nhanh tiến độ dự án Khu du lịch văn hóa thuộc “Khu di tích quốc gia đặc biệt khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh” tại xã Kim Liên, huyện Nam Đàn và các dự án đang được nhà đầu tư đề xuất nghiên cứu để kịp triển khai thực hiện đưa vào khai thác sau năm 2025.

Thứ hai, phát triển sản phẩm du lịch chủ đạo độc đáo, hấp dẫn gồm:

(1) Du lịch nghỉ dưỡng biển, đảo tập trung làm mới và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, dịch vụ. Đầu tư hoàn thiện hạ tầng, sắp xếp, quy hoạch lại các điểm dịch vụ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng các sản phẩm lưu niệm đặc trưng của tỉnh để phục vụ hoạt động dịch vụ tại các di tích có giá trị tài nguyên du lịch nổi trội trên địa bàn tỉnh; đầu tư tu bổ và nâng cấp các di tích tại các điểm: Đền Hoàng Mười, Đền Quang Trung, Quảng trường Xô Viết Nghệ Tĩnh, Khu lưu niệm Phan Bội Châu, Khu sinh thái - văn hóa tâm linh Rú Gám, Đình Hoành Sơn, Chùa Đại Tuệ, Đền Cờn, Đền Quả Sơn, Đền Cuông, Km0 đường mòn Hồ Chí Minh… nhằm đảm bảo các điều kiện phục vụ khách du lịch.

(2) Du lịch sinh thái, khám phá, thám hiểm: Hoàn thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch sinh thái, trong đó chú trọng tại các điểm du lịch đã được UBND tỉnh công nhận, như: Khu du lịch sinh thái Phà Lài, thác Khe Kèm (Con Cuông), Đảo chè Thanh Chương), Khu du lịch sinh thái Diễn Lâm, Hòn Mát (Nghĩa Đàn), Cổng trời Mường Lống Kỳ Sơn,... gắn du lịch sinh thái với khám phá bản sắc văn hóa của người dân địa phương, đi bộ khám phá rừng Săng Lẻ (Tương Dương). Phối hợp hoàn thiện sản phẩm du lịch mạo hiểm "Chinh phục đỉnh Pù Xai Lai Leng" theo hướng an toàn và chuyên nghiệp, đồng thời từng bước thử nghiệm và đưa vào hoạt động một số tour du lịch mới: Chinh phục đỉnh Thác Khe Kèm, ngắm thú ban đêm… tại Vườn Quốc gia Pù Mát, cũng như khám phá cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, đèo dốc ngoạn mục của Cung đường miền Tây xứ Nghệ. Đẩy nhanh tiến độ các dự án: Khu sinh thái Mường Thanh Diễn Lâm Green land (khu B), Khu du lịch sinh thái Pha Lài - sông Giăng (giai đoạn 2), Khu du lịch dịch vụ hỗn hợp và nghỉ dưỡng tại đập Cầu Cau (Thanh Chương), Vườn động vật sinh thái Hòn Nhạn - giai đoạn 2 (Diễn Châu) để sớm đưa vào khai thác; Tích cực đẩy mạnh hoạt động thu hút đầu tư dự án: Khu du lịch sinh thái thác Khe Bàn (Quỳ Châu), Khu du lịch sinh thái thác Khe Kèm (Con Cuông), Khu phức hợp suối nước nóng Giang Sơn (Đô Lương)... Từng bước xây dựng, hoàn thiện và đưa vào khai thác sản phẩm du lịch đường sông: Ngược dòng sông Giăng (từ đập Pha Lài đến Bản Cò Phạt), Du thuyền trên sông Lam nghe dân ca Ví, Giặm (Bến Thủy - Cửa Hội, Bến Thủy - Đền Hoàng Mười); Đền Quả Sơn - Chùa Bà Bụt…, đồng thời hình thành thêm các tour du lịch đường sông tại Nam Đàn (Phan Bội Châu - Mai Hắc Đế), du lịch trải nghiệm trên hồ, đập thủy điện: Bản Vẽ, Khe Bố (Tương Dương).

(3) Du lịch cộng đồng, trải nghiệm

 Nâng cao chất lượng các mô hình du lịch cộng đồng hiện đang phục vụ khách du lịch tại Bản Xiềng, Bản Nưa, Bản Khe Rạn (Con Cuông); Bản Quang Phúc (Tương Dương), Bản Yên Hòa (Kỳ Sơn); Bản Cọ Muồng, Bản Long Thắng (Quế Phong), Bản Hoa Tiến (Quỳ Châu) trên cơ sở gia tăng hàm lượng hoạt động khám phá, trải nghiệm bản sắc văn hóa địa phương, cảnh quan thiên nhiên, hoạt động sản xuất nông nghiệp, làng nghề truyền thống, ẩm thực... Tăng cường huy động nguồn lực của doanh nghiệp và người dân cho phát triển du lịch cộng đồng tại Mường Lống (Kỳ Sơn)…

 Đẩy mạnh khai thác du lịch trải nghiệm tại: Vườn hoa ở Nghĩa Đàn, Thái Hòa (Vườn Nho, Trương Gia Trang, Thung lũng hoa Phủ Quỳ, Trang trại TH,...), Vườn Hồng (Nam Đàn), Vườn cây cảnh Nghi Ân (TP Vinh), Vườn dâu Tây (Hưng Nguyên), Cánh đồng muối (Quỳnh Lưu)... Từng bước xây dựng mô hình du lịch cộng đồng, dịch vụ trải nghiệm, nông thôn gắn với đặc trưng vùng miền, lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh…

(4) Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch bổ trợ đáp ứng nhu cầu của khách du lịch như du lịch MICE, du lịch Golf. Tập trung phát triển loại hình du lịch đô thị tại thành phố Vinh với vị thế là trung tâm vùng kinh tế, văn hóa vùng Bắc Trung Bộ với các sản phẩm du lịch như: (Thành cổ Vinh, đền Quang Trung, Nhà lưu niệm Nguyễn Thị Minh Khai...), Quảng trường Hồ Chí Minh và Tượng đài Bác Hồ, các công viên cùng chuỗi các đô thị (Ecopark, Vingroup, Vinh River Side...), cơ sở lưu trú chất lượng cao, các trung tâm mua sắm, giải trí, cùng các hoạt động du lịch về đêm (phố đi bộ, phố ẩm thực), đặc biệt là gắn với du lịch nghỉ dưỡng biển. Phối hợp xúc tiến khai thác nguồn khách du lịch quốc tế nước thứ 3 từ các trọng điểm du lịch của nước bạn Lào (Luang Prabang, Cánh đồng Chum) quá cảnh qua Cửa khẩu Nậm Cắn (Kỳ Sơn) đến Nghệ An. Đồng thời, từng bước nghiên cứu khai thác khách du lịch đường biển quá cảnh tại Cảng Cửa Lò và quá cảnh đường bộ qua Cửa khẩu Thanh Thủy (sau khi cao tốc Hà Nội - Viêng Chăn được đầu tư).

Thứ ba, đẩy mạnh hợp tác liên kết xây dựng sản phẩm du lịch chuyên đề. Theo đó triển khai xây dựng sản phẩm du lịch chuyên đề về nông nghiệp công nghệ cao trên cơ sở kết nối các điểm đến: Thung lũng Hoa Phủ Quỳ (Nghĩa Đàn); Khu vực du lịch Nông nghiệp CNC TH Bắc Nghĩa Đàn; Khu vực du lịch NNCNC Thảo Dược Hoa (Nghĩa Đàn); Khu vực du lịch Nông nghiệp CNC TH Trung tâm Nghĩa Đàn.  Kết hợp lựa chọn và từng bước xây dựng một số sản phẩm du lịch chuyên đề như: Chuyên đề về Các dòng sông xứ Nghệ: tập trung xây dựng tại Sông Lam (đoạn Bến Thủy - Đền Ông Hoàng Mười và phát triển thêm đoạn Đền Mai Hắc Đế - Bến Tam Soa, Sông Giăng (Bến Pha Lài - Bản Cò Phạt); Chuyên đề chinh phục các đỉnh Núi cao; Chuyên đề du lịch Làng Chài… Nghiên cứu đầu tư thêm các sản phẩm du lịch chuyên đề Hồ Chí Minh và lịch sử cách mạng, chuyên đề sinh thái hồ thủy điện, chuyên đề về các vị Vua ở Nghệ An (Đền thờ Hoàng đế Quang Trung - Di tích Kim Liên - Di tích Mai Hắc Đế).

Thứ tư, ban hành chính sách thúc đẩy các tương tác xã hội và xây dựng tính thân thuộc của điểm đến với du khách gồm tạo ra không gian công cộng hấp dẫn như thiết kế các khu vực chung bằng cách tạo ra các không gian chung như quảng trường, công viên, quán cà phê ngoài trời để du khách có thể gặp gỡ, giao lưu. Tổ chức các sự kiện văn hóa, nghệ thuật, thể thao để thu hút du khách và tạo cơ hội giao lưu. Cung cấp các dịch vụ miễn phí như wifi, điểm sạc điện thoại để tạo điều kiện thuận lợi cho du khách. Khuyến khích tham gia các hoạt động cộng đồng, như: tổ chức các lớp học về ẩm thực, thủ công mỹ nghệ, ngôn ngữ địa phương để du khách có cơ hội tìm hiểu về văn hóa địa phương; Tham gia vào các hoạt động tình nguyện khuyến khích du khách tham gia vào các hoạt động tình nguyện như trồng cây, dọn dẹp môi trường; Tạo điều kiện cho du khách gặp gỡ người dân địa phương như tổ chức các buổi giao lưu giữa du khách và người dân địa phương. Đẩy mạnh sử dụng các công cụ truyền thông xã hội bằng cách tạo các trang mạng xã hội của điểm đến để du khách có thể chia sẻ hình ảnh, video, kinh nghiệm du lịch. Tổ chức các cuộc thi ảnh, video để khuyến khích du khách chia sẻ về trải nghiệm của mình. Tương tác với du khách bằng cách trả lời bình luận, tin nhắn.

Thứ năm, chính quyền tỉnh cần xây dựng những kế hoạch phát triển ngắn hạn và dài hạn cho các khu du lịch địa phương, hướng đến sự bền vững và bảo vệ môi trường. Các kế hoạch này có thể nhắm tới việc phân vùng và tách rời các khu trọng điểm phát triển du lịch với các khu công nghiệp tại địa phương và/hoặc chuyển dịch cơ cấu phát triển địa phương từ các ngành công nghiệp sang “ngành công nghiệp không khói”, thay thế các loại hình khai thác công nghiệp gây ô nhiễm. Cần xây dựng cơ chế quản lý hoạt động của các nhà hàng, quán ăn tại các điểm du lịch, trong hoạt động chế biến và sản xuất thực phẩm an toàn vệ sinh và sử dụng các nguồn cấp thực phẩm có rõ ràng, đảm bảo. Đặc biệt những món ăn ẩm thức có liên quan đến thực vật và động vật quý hiếm cần có sự duy trì nuôi trồng hay/và bảo vệ chúng hợp lý, tránh khai thác quá mức, ảnh hưởng đến hệ sinh thái khu du lịch.

Thứ sáu, có chính sách đầu tư hoàn thiện hạ tầng, sắp xếp, quy hoạch lại các điểm dịch vụ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng các sản phẩm lưu niệm đặc trưng của tỉnh để phục vụ hoạt động dịch vụ tại các di tích có giá trị tài nguyên du lịch nổi trội trên địa bàn tỉnh; đầu tư tu bổ và nâng cấp các di tích tại các điểm đến đặc thù của tỉnh, nhằm đảm bảo các điều kiện phục vụ khách du lịch.

Thứ bảy, có chính sách phát triển một hệ thống đường giao thông hiện đại và tiện lợi, hệ thống các biển báo, chỉ dẫn, trạm dừng chân và bãi đỗ xe cần được sắp xếp hợp lý và đảm bảo rõ ràng và đủ cung cấp, tại tất cả lối vào tiếp cận khu du lịch nhằm đảm bảo an toàn giao thông và tiết kiệm thời gian trong quá trình đi lại của dân cư và du khách. Đầu tư xây dựng và nâng cấp mở rộng các tuyến quốc lộ, đường tỉnh, các tuyến đường quan trọng: Đường ven biển Nghi Sơn - Cửa Lò, đường giao thông nối Vinh - Cửa Lò, đường nối QL7C đi đường Hồ Chí Minh,... Phối hợp với các bộ, ngành, các chủ đầu tư thực hiện nâng cấp và mở rộng QL.7, QL.46 (đoạn Vinh - Nam Đàn), QL.15, đường nối QL.48 với QL.45, đường bộ cao tốc Hà Nội - Viêng Chăn (đoạn qua Nghệ An), Tuyến đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam. Thu hút đầu tư nâng cấp, mở rộng Cảng hàng không quốc tế Vinh theo hình thức xã hội hóa đạt quy mô sân bay cấp 4E, thu hút đầu tư các bến tổng hợp tại Cảng Cửa Lò, bến cảng Đông Hồi,... Triển khai Đề án phát triển hạ tầng thương mại trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2022-2025 tại Quyết định số 1998/QĐ-UBND ngày 08/7/2022 của UBND tỉnh; Kế hoạch số 508/KH-UBND ngày 01/9/2021 của UBND tỉnh thực hiện Quyết định số 259/QĐ-TTg ngày 25/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Phát triển hạ tầng thương mại biên giới Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Phát triển hạ tầng kỹ thuật số trên cơ sở kết hợp mạng truyền số liệu chuyên dùng, mạng internet, trung tâm dữ liệu của cơ quan nhà nước để kết nối liên thông xuyên suốt từ cấp tỉnh đến cấp xã, đẩy mạnh chuyển đổi số và phát triển kinh tế số.

Thứ tám, ban hành các chính sách riêng về thu hút đầu tư các dự án về du lịch có quy mô lớn, chất lượng cao; dự án du lịch cộng đồng tại các huyện miền Tây Nghệ An. Hiện nay, mặc dù là địa phương có kết quả thu hút đầu tư rất tốt, tuy nhiên trong lĩnh vực du lịch vẫn chưa thực sự có các dự án đầu tư quy mô lớn tầm cỡ để tạo sức bật cho phát triển du lịch. Chính quyền tỉnh Nghệ An cần có các chính sách đột phá, ưu tiên trong thu hút đầu tư du lịch và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp.

4. Kết luận

Tỉnh Nghệ An có các lợi thế về tài nguyên du lịch, kết nối giao thông, phát triển đô thị, nhất là có đặc thù riêng biệt về con người, lịch sử và văn hóa; tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng cả về biển đảo, hệ sinh thái, thủy văn… và văn hóa. Đây sẽ là những tiềm lực hết sức thuận lợi để phát triển du lịch. Vì vậy, chính quyền tỉnh Nghệ An cần có một nhận thức đầy đủ, sâu sắc và thông suốt, thống nhất một cách đầy đủ để đưa ra những chính sách phát triển đột phá để phát huy hiệu lực, hiệu quả và bền vững trong bối cảnh hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Phạm Thái Hà (2024). Thực tiễn phát triển du lịch của một số điểm đến trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho thành phố Đà Nẵng, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 5 (552), tr. 97-108.

Sở Khoa học và Công nghệ Nghệ An (2023). Giải pháp phát triển du lịch bền vững tại Nghệ An. Truy cập tại https://ngheandost.gov.vn

Sở Khoa học và Công nghệ Nghệ An (2023). Phát triển kinh tế du lịch tỉnh Nghệ An: Thực trạng và giải pháp. Truy cập tại https://khcn.nghean.gov.vn

Sở Du lịch Nghệ An (2023). Du lịch Nghệ An: Tầm nhìn và khát vọng phát triển. Truy cập tại https://dulich.nghean.gov.vn

Sở Du lịch Nghệ An (2024). Báo cáo kết quả hoạt động du lịch các năm 2021-2024.

Cục Thống kê tỉnh Nghệ An (2024), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An các năm 2021-2024. Truy cập tại https://www.nghean.gov.vn/trang-thong-tin-kinh-te-xa-hoi-tinh-nghe-an

Ahn, B,, Lee, B,, & Shafer, C, S, (2002), Operationalizing sustainability in regional tourism planning: an application of the limits of acceptable change framework, Tourism Management, 23(1), 1-15.

Alegre, J., & Juaneda, C. (2006), “Destination loyalty Consumers’ Economic Behavior”, Annals of Tourism Research, 33(3), 684-706.

Assessing the tourism development potential of Nghe An province: Challenges and policy recommendations

Dao Quang Thang

Vinh University

Abtract:

Nghe An is often regarded as a miniature Vietnam due to its strategic location, diverse topography, including islands, plains, midlands, and mountains, a well-developed transportation network, and international connectivity. The province also possesses numerous nationally significant historical sites and a favorable geographic position in the heart of the North Central region, offering strong potential for regional tourism linkages. These advantages create favorable conditions and opportunities for the development of Nghe An’s tourism sector. However, despite recent improvements, the province’s tourism development remains below its potential. This study assesses the tourism development potential of Nghe An and proposes a number of policy recommendations to elevate the province’s tourism industry in the coming years.

Keywords: tourism potential, tourism development policy solutions, Nghe An province.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 16 năm 2025]