Ông Nguyễn Trung Hòa- Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ - Bộ Xây dựng: Cần hiểu và đặt cho đúng vai trò của kiểm toán năng lượng.

 Đối với những tòa nhà chuẩn bị xây dựng, có thể đưa các giải pháp tiết kiệm năng lượng ngay từ khâu thiết kế theo quy chuẩn xây dựng Việt Nam “Các công trình sử dụng năng lượng có hiệu quả” mà Bộ Xây dựng đã ban hành vào tháng 11/2005. Còn đối với những tòa nhà đã đi vào sử dụng rồi thì buộc phải trông cậy vào vai trò quản lý. Về vấn đề này, Bộ Xây dựng cũng đã xây dựng mô hình mẫu về quản lý năng lượng rồi nhân rộng, đưa vào các công trình xây dựng, đặc biệt là nhà cao tầng, văn phòng cao ốc, khách sạn cao tầng, các trung tâm thương mại, siêu thị...

Tuy nhiên, việc quản lý này cũng gặp rất nhiều khó khăn do năng lực và kinh nghiệm còn non yếu. Thêm vào đó là việc tính toán, định lượng giá trị tiết kiệm năng lượng hiện nay của chúng ta còn thiếu bài bản và kinh nghiệm, nhất là đối với một “mặt hàng” vốn rất khó kiểm chứng là năng lượng. Vì vậy, tôi cho rằng, cần hiểu và đặt cho đúng vai trò của kiểm toán năng lượng. Đây là những thước đo quan trọng giúp chúng ta hiểu được và mất gì khi thực hiện tiết kiệm năng lượng. Cuối cùng, cần phải sớm ra đời Luật TKNL để tất cả đều vận hành theo đúng quỹ đạo “Tiết kiệm năng lượng” chung.

 TS. Đàm Xuân Hiệp: Hiệu trưởng Trường Đại học Điện lực: Chúng ta phải đi bằng hai loại cơ chế hỗ trợ cho nhau.

Đối tượng mà Luật Tiết kiệm Năng lượng (TKNL) hướng tới là những người sử dụng năng lượng (NL). Mặc dù vậy, nó vẫn có tác dụng rất tích cực đối với các cơ sở SX và cung cấp NL mà cụ thể là ngành Điện. Nhiều nhà khoa học cũng đã chứng minh rằng, chi phí đầu tư để tiết kiệm 1 đơn vị công suất sẽ rẻ hơn rất nhiều so với đầu tư để tăng 1 đơn vị công suất phát, đặc biệt là tại các nước đang phát triển như nước ta. Riêng ở VN, tốc độ tăng nhu cầu rất nhanh (một mặt do nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng mạnh, mặt khác, do ý thức tiết kiệm năng lượng kém), trong khi hệ thống cung cấp bao gồm từ khâu SX đến truyền tải thường không kịp đáp ứng nên thường xảy ra hiện tượng quá tải. Quá tải các đường dây sẽ làm tăng tổn thất trên toàn hệ thống. Luật TKNL cho phép giảm được các sức ép kể trên và đương nhiên, có tác dụng thúc đẩy quá trình nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng công nghệ tại Việt Nam.

Tuy nhiên, để chủ trương của Đảng và Nhà nước được thực hiện có hiệu quả, chúng ta phải sử dụng hai loại cơ chế, đó là “cơ chế mang tính pháp luật” và “cơ chế mang tính tài chính” vì các qui định của Luật mà chế tài đi kèm không đủ mạnh, thì Luật sẽ kém hiệu lực. Chưa kể giá điện ở VN hiện còn mang nặng tính bao cấp, nên ý thức TKNL của người tiêu dùng rất hạn chế. Vì vậy, Luật phải quy định rõ ràng, kiên quyết, buộc các cơ sở và người sử dụng NL quan tâm đến TKNL. Ví dụ, cấm SX các thiết bị dùng điện có tiêu hao NL lớn, hoặc đóng cửa các DN có công nghệ lạc hậu... thì giá NL, hoặc thuế tiêu dùng NL phải “đủ sức nặng” để kích thích thị trường khoa học công nghệ, đặc biệt là các công nghệ về TKNL có đất phát triển.

TS. Trần Đình Bắc – Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu – Tư vấn chiếu sáng đô thị:  Thực thi Luật trong tình hình hiện nay là rất khó.

Trong bộ Luật này, một số qui định về chỉ tiêu TKNL chưa có. Trong lĩnh vực rất nhỏ là chiếu sáng, chúng ta mới dán nhãn được 2 sản phẩm, còn rất nhiều sản phẩm chúng ta cần phải dán nhãn và đưa vào qui chuẩn. Trong thực tế hiện nay, đối với các thiết bị sử dụng năng lượng, chúng ta rất thiếu những tiêu chuẩn để biết nó là tiết kiệm hiệu quả. Cho nên, đẩy mạnh xây dựng các tiêu chuẩn là rất cần thiết.

Theo tôi, việc thực thi Luật TKNL là rất khó. Rất thích, rất tốt, rất cần nhưng rất khó. Bởi vì, trong tất cả các lĩnh vực của chúng ta hiện nay, 70-75% các thiết bị sử dụng năng lượng là những thiết bị lạc hậu, được sản xuất từ những năm 30, 60, 70 của thế kỷ trước. Còn chỉ khoảng 30-35% thiết bị là hiện đại một chút, thì việc sử dụng năng lượng hiệu quả các thiết bị của chúng ta là cực kỳ kém. Công nghệ hơn 90% là lạc hậu. Chiếu sáng dãn nhãn được 2 sản phẩm, vì vẫn còn nhiều dây chuyền sản xuất sản phẩm không tiết kiệm đang hoạt động. Công nghệ để giúp chúng ta sản xuất các thiết bị TKNL là không đảm bảo các chỉ tiêu. Do đó, việc đưa ra các qui định để thực thi Luật cần phải được chuẩn bị kỹ hơn.

 TS. Trương Duy Nghĩa – Chủ tịch Hội KHKT Nhiệt Việt Nam. Từ nay cho đến khi ban hành Luật Tiết kiệm năng lượng còn nhiều việc phải làm.

 Từ trước đến nay, khi chưa có Luật TKNL thì mọi biện pháp chỉ dừng ở mức độ vận động, kêu gọi mà thôi. Luật TKNL ra đời sẽ buộc các cơ quan, doanh nghiệp sử dụng năng lượng phải có trách nhiệm theo dõi và tổ chức quản lý một cách hiệu quả nguồn năng lượng mà minh đang sử dụng.

 Theo tôi, ở những đơn vị quản lý tốt vấn đề sử dụng năng lượng thì khi Luật TKNL có hiệu lực, vẫn còn có thể tiết kiệm được từ 3-5% tổng năng lượng tiêu thụ ở đơn vị minh. Còn đối với những đơn vị và doanh nghiệp từ trước đến nay chưa quản lý tốt, thì khi áp dụng Luật TKNL sẽ tiết kiệm được từ 20-30% tổng năng lượng tiêu thụ.

 Vì vậy,å khi Luật TKNL đi vào cuộc sống thì hiệu quả của Luật là vô cùng to lớn. Tuy nhiên, từ nay cho đến khi ban hành Luật TKNL còn rất nhiều việc phải làm. Đó là kèm theo Luật phải có các văn bản dưới Luật, hướng dẫn thi hành Luật bao gồm những qui trình, quy tắc thực hiện được cụ thể hóa bằng các chỉ tiêu pháp lệnh (tiêu chuẩn và quy chuẩn). Đội ngũ cán bộ KHCN của Việt Nam hoàn toàn đủ khả năng xây dựng được các quy chuẩn này trong thời gian 2-3 năm.

 Bên cạnh đó, để theo dõi, kiểm tra việc thực hiện Luật TKNL, phải tổ chức kiểm toán năng lượng. Các doanh nghiệp, cơ quan phải lập báo cáo đầy đủ, sát với tình hình sử dụng năng lượng ở đơn vị mình. Muốn vậy, phải xây dựng được phương pháp TKNL chuẩn cho từng loại hình doanh nghiệp.

 Việc ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn, phương pháp TKNL chuẩn phải được coi là nhiệm vụ trọng tâm. Giới trí thức khoa học cần phối hợp chặt chẽ để cùng nhau giải quyết vấn đề tầm cỡ quốc gia này.

 Ông Huỳnh Kim Tước – Giám đốc Trung tâm TKNL thành phố Hồ Chí Minh: Việt Nam còn thiếu đội ngũ tư vấn tiết kiệm năng lượng chuyên nghiệp.

 Hiện nay, ở Việt Nam, lĩnh vực sản xuất công nghiệp vẫn là thành phần sử dụng nhiều nhất cả về điện và các nguồn năng lượng khác. Chỉ xét ở khối doanh nghiệp, thì hiện nay có tới 70% nguồn năng lượng được sử dụng bởi các doanh nghiệp lớn, còn 30% tập trung tại các doanh  nghiệp nhỏ và vừa.

Tuy nhiên, các tập đoàn kinh tế lớn chủ yếu do Nhà nước quản lý, hiện tại vẫn chưa có thói quen sử dụng đội ngũ tư vấn TKNL chuyên nghiệp. Bởi khi thực hiện một công trình tư vấn TKNL hiệu quả ở cấp doanh nghiệp lớn thì họ phải chi trả một khoản tiền lên tới hàng tỷ đồng, còn các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì chí ít cũng phải chi hàng trăm triệu đồng, nhưng việc giải ngân để cho vấn đề đó quả thật không đơn giản chút nào trong điều kiện cơ chế hiện nay.

Theo tôi, để tiết kiệm điện hiệu quả, chúng ta cần phải xây dựng một đội ngũ chuyên gia tư vấn về các giải pháp TKNL một cách chuyên nghiệp ngay tại các trường đại học. Sau khi đội ngũ đó ra trường, Nhà nước cần phải phân công, phân bổ họ sao cho hợp lý, đồng đều từ trung ương đến địa phương nói chung và từ các doanh nghiệp nhỏ đến các doanh nghiệp lớn nói riêng. Coi đội  ngũ  đó vừa là những kênh tuyên truyền đắc lực, lại vừa là những bộ óc thường xuyên sáng chế ra các giải pháp TKNL cho Nhà nước. Có làm được như vậy thì chúng ta mới hi vọng thay đổi được những thói quen sử dụng nguồn năng lượng lãng phí của người dân và doanh nghiệp.

Ông Nguyễn Minh Đức – Phó giám đốc Công ty PG Lighting: Luật Tiết kiệm Năng lượng cần sớm được ban hành để thúc đẩy mạnh hơn tiến trình tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng.

Trong những năm gần đây, nhận thức và việc thực hành tiết kiệm năng lượng (TKNL) trong xã hội đã có những chuyển biến rõ rệt, tuy nhiên, tình hình sử dụng năng lượng của nước ta vẫn được các chuyên gia đánh giá là lãng phí và kém hiệu quả. Chính phủ và các cấp, các ngành, địa phương đã rất tích cực tuyên truyền, khuyến khích và hỗ trợ người dân TKNL, nhưng theo tôi, trông chờ vào sự tự giác của cộng đồng xã hội và các doanh nghiệp thì chưa đủ. Do đó, Luật Tiết kiệm Năng lượng với các chương mục, điều khoản hợp lý, bao trùm được toàn bộ các hoạt động có liên quan đến sử dụng năng lượng, cần sớm được ban hành để thúc đẩy mạnh hơn tiến trình tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng.

Chúng tôi là Công ty sản xuất kinh doanh bóng đèn huỳnh quang compact, nên những năm gần đây, chúng tôi đã ứng dụng ngay sản phẩm của mình vào chương trình tiết kiệm điện.  Đầu năm 2006, Tập đoàn PG đã thực hiện thay thế bóng đèn cao áp thuỷ ngân 250W bằng bóng đèn compact 85W do PG Lighting sản xuất cho 7 công ty thành viên của mình, số lượng bóng thay thế là 465 bóng. Lượng điện tiêu thụ cho chiếu sáng chung mỗi tháng giảm trên 24.000 kW, tương ứng với khoảng 24 triệu đồng, mỗi năm, Tập đoàn PG tiết kiệm được trên 288.000 kW, tương ứng với trên 288 triệu đồng. Hiện Công ty đang chuẩn bị, xúc tiến thủ tục để được dán nhãn tiết kiệm điện. Việc dán nhãn tiết kiệm điện, theo tôi, các cơ quan chức năng cần có sự tư vấn, hỗ trợ thiết thực hơn nữa để các doanh nghiệp có điều kiện và nhanh chóng sản xuất ra các sản phẩm đạt chuẩn về TKNL.

Ông Ngọ Quang Tôn – Xã Bảo Lý, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên: Nhà nước nên cấp phát hoặc bán đèn rẻ hơn giá thị trường.

Tôi chưa biết Luật Tiết kiệm Năng lượng nói gì, nhung theo thiển nghĩ của tôi, chắc chắn Luật sẽ bao hàm những quy tắc về quản lý, sử dụng hiệu quả các nguồn năng lượng nói chung và nếu Nhà nước có trưng cầu ý kiến xây dựng Luật, chúng tôi hoàn toàn ủng hộ.

Nói về tiết kiệm năng lượng, có lẽ người dân quê tôi đã thành thói quen rất tiết kiệm khi sử dụng hai nguồn than và điện trong sinh hoạt, vì đối với nông dân, kiếm được đồng tiền quả thật rất khó khăn. Chính vì vậy mà mỗi tháng, các hộ gia đình ở quê tôi dùng điện không nhiều, chỉ bình quân mỗi hộ dăm, ba chục ngàn đồng tiền điện. Để chia sẻ với Nhà nước trong tình hình thiếu điện hiện nay, người nông dân cũng muốn dùng các loại đèn compact tiết kiệm điện, nhung khi phải mua đèn với giá từ vài chục ngàn đồng trở lên một bóng đèn loại này, thì rõ ràng người dân khó chấp nhận vì giá đèn quá cao. Nếu để vận động người dân tiết kiệm điện, Nhà nước nên có cơ chế khuyến khích các hộ dân nông dân, cấp cho mỗi hộ từ 2-3 bóng, hoặc bán với giá hỗ trợ thấp hơn 2/3 giá mỗi bóng đèn hiện tại mà ngành Điện và thị trường đang bán.