Các nhà nhập khẩu Nhật Bản dành sự quan tâm nhiều hơn đến những sản phẩm thời trang nhưng theo mùa vụ để phục vụ các đối tượng khách hàng. ở Nhật Bản có 4 mùa rõ rệt là Xuân – Hạ - Thu - Đông, nên thời trang cũng phải phù hợp với từng mùa, cả về kiểu dáng và chất liệu làm ra sản phẩm. Vì thế, khi xây dựng kế hoạch bán hàng, các doanh nghiệp cũng phải tính đến cả sự khác biệt về thời tiết trên thị trường.

Hàng hóa có mẫu mã đa dạng và phong phú về chủng loại luôn giành được sự quan tâm của khách hàng. Đơn cử mặt hàng dầu gội đầu có nhiều chủng loại khác nhau cả về thành phẩm, màu sắc, hương thơm… Vì thế, nhãn hiệu có kèm theo hướng dẫn sử dụng luôn là yếu tố mà nhà sản xuất phải tính đến. Người Nhật Bản thường có thói quen mua hàng và số lượng ít và thích thay đổi mẫu mã, nên qui mô của lô hàng xuất khẩu vào thị trường này có xu hướng nhỏ hơn, chủng loại hàng hóa phong phú hơn. Bao bì của sản phẩm phải gắn với yêu cầu bảo vệ môi trường sinh thái, nên vỏ bọc hàng hóa cần phải tái chế được. Những loại bao bì chỉ sử dụng một lần sẽ ít được ưa chuộng.

Người tiêu dùng Nhật Bản đặc biệt quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường. Vì thế, yếu tố đặt lên hàng đầu đối với hàng hóa nhập khẩu là liệu hàng hóa đó có hại gì cho sức khoẻ con người và ảnh hưởng đến môi trường sinh thái hay không? Ví dụ: đối với nhóm hàng thủ công mỹ nghệ, khách hàng thích tìm mua những sản phẩm làm bằng sừng trâu, nhưng khi xuất khẩu những sản phẩm làm từ nguyên liệu này, các doanh nghiệp cần phải chứng minh rằng sản phẩm của họ không vi phạm công ước quốc tế về bảo vệ động thực vật hoang dã. Hiện nay, nhóm hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Việt Nam rất có tiềm năng. Mặt hàng này đang được xuất khẩu tới 136 nước trên thế giới và có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hơn 20%/năm. Riêng thị trường Nhật Bản chiếm tới 20% xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Nhằm đẩy mạnh đầu tư phát triển, gia tăng xuất khẩu nhóm hàng thủ công mỹ nghệ và quà tặng nói chung và sang thị trường Nhật Bản nói riêng, tháng 3/2008 tại Hà Nội, Cục Xúc tiến thương mại phối hợp với cơ quan Xúc tiến thương mại Nhật Bản (Jetro) đã tổ chức hội thảo tư vấn xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ và quà tặng sang thị trường Nhật Bản.

Để có thể xuất khẩu thủy sản đạt chất lượng cao, mối quan tâm hàng đầu là nguồn nguyên liệu. Như vậy, cần quan tâm quản lý chất lượng ngay từ khâu nuôi trồng và khai thác thủy sản theo tiêu chuẩn và điều kiện kinh doanh không gây hậu quả xấu cho môi trường sinh thái. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật cho hoạt động sản xuất – kinh doanh thủy sản phù hợp với yêu cầu của thị trường quốc tế; đồng thời phối hợp với ngành Y tế trong chỉ đạo sử dụng các loại kháng sinh. Về phía các doanh nghiệp sản xuất và chế biến thuỷ sản cần tăng cường kiểm tra nguyên liệu đầu vào và kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi xuất khẩu, không để lọt những sản phẩm kém chất lượng làm ảnh hưởng đến uy tín của thủy sản Việt Nam. Đi đôi với những biện pháp đó, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản cần quan tâm đăng ký bảo hộ thương hiệu ở Nhật Bản. Tuy nhiên, việc xuất khẩu thương hiệu là một quá tình lâu dài, đòi hỏi doanh nghiệp phải có chiến lược và đầu tư thích đáng. Thời gian tới, các doanh nghiệp sẽ tiếp tục phải đương đầu với không ít rào cản, đòi hỏi phải tìm cách để phát huy thế mạnh, giảm thiểu khó khăn và rủi ro mới có thể thành công trong xuất khẩu.

Theo qui định của thị trường Nhật Bản, tất cả các loại hoa cắt cành nhập khẩu đều phải tuân thủ theo Luật kiểm dịch thực vật. Việc kiểm tra hàng nhập khẩu được tiến hành tại cảng hoặc sân bay của Nhật Bản. Nếu hàng hóa đã được kiểm dịch tại nước xuất khẩu thì khi về đến cảng, sân bay Nhật Bản chỉ phải lấy mẫu tối thiểu để kiểm tra. Trong trường hợp phát hiện có côn trùng gây hại, hàng hóa sẽ được tiến hành khử trùng, hủy bỏ hoặc trả lại nhà nhập khẩu tùy, theo từng trường hợp nhiễm loại côn trùng gì và mức độ nhiễm ra sao. Về phía nhà nhập khẩu, cần lưu ý 2 bước sau: Kiểm tra chất lượng sản phẩm tại điểm giao hàng, nhưng trước đó phải thống nhất phương thức kiểm tra và cách xử lý côn trùng, sâu bọ. Ngoài ra, các nhà xuất khẩu còn phải quan tâm đến vật liệu sử dụng để đóng gói không mang theo côn trùng làm hại đến sức khoẻ con người. Phải thống nhất trước với nhà nhập khẩu về cảng đến, vì có một số cảng ở Nhật Bản không có đủ phương tiện cần thiết để kiểm dịch hoa.

Trên thực tế, có nhiều doanh nghiệp Nhật Bản khi đầu tư vào Việt Nam vẫn phải nhập khẩu linh kiện, vật tư từ Nhật Bản hoặc từ các nước khác như Trung Quốc, Malaixia… Trong khi đó, các doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng tương tự của Việt Nam vẫn phải vật lộn trong tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Điều này đặt ra câu hỏi là vì sao những sản phẩm của Việt Nam chưa được thị trường Nhật Bản chấp nhận; thậm chí có cả những doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư sản xuất ở Việt Nam mà sản phẩm của họ cũng gặp khó khăn về đầu ra tương tự.

Những năm gần đây, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản luôn trong xu thế gia tăng, nhưng nhìn chung tỷ trọng hàng hóa Việt nam tại thị trường Nhật Bản khá khiêm tốn, chỉ chiếm khoảng 1% tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản, thấp hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực. Theo Trung tâm Hỗ trợ DNVVN, thì có nhiều lý do khiến cho hàng hóa của Việt Nam khó tiếp cận thị trường Nhật Bản. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là DNVVN, sự thiếu đồng bộ về dây chuyền sản xuất, thiếu chuyên nghiệp trong quản lý, thiếu ổn định về chất lượng sản phẩm, không bảo đảm tiến độ giao hàng… là những rào cản chính khi các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường Nhật Bản. Đặc biệt, thị trường Nhật Bản lại đòi hỏi khắt khe về chất lượng sản phẩm và yếu tố môi trường, trong khi những chỉ tiêu này cho đến nay hầu như các doanh nghiệp Việt Nam chưa thật sự quan tâm. Không chỉ trở ngại trong khâu tiếp cận thị trường, mà ngay cả khâu thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam cũng có khó khăn.

Ông Motoyuki Oka, Chủ tịch Uỷ ban Kinh tế Nhật-Việt cho rằng, vấn đề lớn nhất là hạ tầng cơ sở. Nếu hạ tầng cơ sở của Việt Nam chậm được cải thiện, nó sẽ là “nút thắt cổ chai” trong thu hút FDI của Nhật Bản nói riêng và trong việc phát triển kinh tế của Việt Nam nói chung. Tiếp đến là nguồn nhân lực có chuyên môn theo kịp yêu cầu công việc. Hai vấn đề này sẽ là trở ngại trong thu hút FDI của Nhật Bản và cả các quốc gia khác vào Việt Nam.

Để mở cửa thị trường mạnh mẽ hơn nữa, đẩy mạnh chế độ mậu dịch tự do, Nhật Bản đang triển khai việc cắt giảm và bãi bỏ thuế nhập khẩu, nới lỏng và chấm dứt các biện pháp hạn chế số lượng, cải thiện hệ thống cấp giấy phép… nên kim ngạch nhập khẩu hàng hóa vào thị trường Nhật Bản đã tăng lên đáng kể. Hiện nay còn đang áp dụng các biện pháp toàn diện để mở rộng qui mô nhập khẩu. Khi muốn nhập khẩu hàng hóa có hạn ngạch, mà nhập khẩu Nhật Bản phải chờ đến khi có thông báo chính thức về hạn ngạch nhập khẩu được công bố vào đầu hoặc giữa năm tài chính, khi đó mới biết được số lượng và giá trị của hàng hóa được nhập khẩu, sau đó nhà nhập khẩu phải tuân theo trình tự các bước xin hạn ngạch nhập khẩu cho từng loại hay từng nhóm hàng. Trong trường hợp nhà nhập khẩu chưa xin phép Bộ Kinht ế – Thương mại – Công nghiệp (METI) thì không được ngân hàng quản lý ngoại hối và các cơ quan chức năng khác cấp giấy phép nhập khẩu. Ngoài những loại hàng hóa phải xin phép, hầu hết các hàng hóa khác nhập khẩu vào Nhật Bản đều được tự do, bởi Nhật Bản là thị trường thực hiện chế độ mậu dịch tự do.

Để thâm nhập thị trường Nhật Bản, các doanh nghiệp cần phát triển các hình thức liên doanh, liên kết với phía đối tác Nhật Bản. Điều này sẽ đem lại mối quan hệ đối tác khách hàng vững chắc, qua đó thu nhận được những thông tin nhanh về thị trường, giúp có được kênh phân phối và ổn định nguồn hàng xuất khẩu. Nhưng để có được mối quan hệ bạn hàng, các doanh nghiệp cần phải có được sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau. Muốn vậy, doanh nghiệp phải cung cấp cho phía đối tác những thông tin quan trọng về mình như: Giới thiệu về công ty, gửi catalog giới thiệu về sản phẩm, gửi mẫu hàng hóa và giá cả, kèm theo các tiêu chuẩn chất lượng, điều kiện giao hàng… Duy trì chất lượng sản phẩm ổn định là yếu tố cơ bản của mối quan hệ đối tác. Đi đôi với đó là bảo đảm thời gian giao hàng. Nhìn chung, người tiêu dùng Nhật Bản có yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm, nhưng không nhất thiết mọi loại hàng hóa đều phải có độ bền cao. Có những sản phẩm vòng đời ngắn, nhưng chất lượng tốt, kiểu dáng đẹp, tiện dụng, cũng phù hợp với nhu cầu của nhiều tầng lớp người tiêu dùng Nhật Bản.

Nhìn chung, các doanh nghiệp Việt Nam chưa năng động trong tìm kiếm bạn hàng, họ thường thụ động chờ đơn hàng (một phần do họ thiếu thông tin về bạn hàng, về thị trường), trong khi đó thì chất lượng hàng xuất khẩu của ta còn chưa đồng đều, giá thành sản xuất cao, thời gian giao hàng không đảm bảo. Ngược lại, về phía doanh nghiệp Nhật Bản, có tới hơn 50% các công ty có văn phòng đại diện tại Việt Nam, nên họ thường chủ động trong việc nắm bắt tình hình thị trường Việt Nam. Những năm gần đây, do sự cạnh tranh mạnh về giá cả và do yêu cầu cao về chất lượng hàng hóa, nhiều nhà nhập khẩu Nhật Bản có xu hướng tìm hiểm trực tiếp thị trường nước ngoài. Thiết lập trực tiếp quan hệ buôn bán với các bạn hàng nước ngoài, mà ít qua nhà phân phối hay trung gian để giảm chi phí dịch vụ. Đây là một nét mới mà các doanh nghiệp Việt Nam cần biết, bởi vì thực tế này cũng đặt ra thách thức cho các doanh nghiệp xuất khẩu của nước ta. Doanh nghiệp Việt Nam cũng cần tích cực chuẩn bị về nhân lực, đồng thời phải có kế hoạch và chiến lược kinh doanh phù hợp./.