1. Điều kiện về thể chế kinh tế:
Thực trạng thể chế kinh tế hiện nay ở nước ta có một điểm yếu là chưa thực sự tạo ra sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế; điều đó thể hiện ở một số quy chế về cho vay vốn, cấp và cho thuê đất làm mặt bằng sản xuất, thuế suất ưu tiên cho phép xuất, nhập khẩu, thái độ của Nhà nước với rủi ro, thua lỗ của doanh nghiệp.v.v… Tất cả những quy chế đó đối với từng thành phần kinh tế đều có chênh lệch, có bộ phận được ưu ái nhiều, có bộ phận bị thành kiến.
Để điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp (chỉ tính từ 1990-2000) chúng ta đã ban hành 84 Đạo luật, 77 Pháp lệnh, 826 Nghị định, trong đó chủ yếu là luật về thuế, vay vốn ngân hàng, thuê đất đai, chuyển nhượng, thế chấp, góp vốn bằng đất đai, thuê mướn lao động, xuất nhập khẩu, mua bán cổ phiếu, chứng khoán, quyền sở hữu trí tuệ, chế độ đấu thầu xây dựng, luật phá sản doanh nghiệp.v.v…
Với số lượng quá nhiều văn bản dưới luật như vậy, làm cho hiện tượng lạm dụng thể chế khá phổ biến. Người ta chỉ thực hiện thể chế có lợi cho mình, còn không thì viện lý do không biết hết. Tuy nhiên, sự mâu thuẫn chồng chéo trong các định chế là điều không thể tránh khỏi. Trong một lĩnh vực, một số đối tượng quản lý, không phải một Bộ đưa ra những quy định cụ thể mà nhiều trường hợp có tới 5,6 bộ, tổng cục riêng rẽ đều ban hành các quy định. Ví dụ như, có tới 18 bộ, tổng cục ra những quy định về hoạt động của ngành Hải quan. Theo thống kê, khi rà soát khoảng 200 văn bản của các bộ, tổng cục, đã có đề nghị bãi bỏ 48 văn bản.
Để góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế, trước hết, cần hoàn thiện chế độ pháp lý về sở hữu, đặc biệt là SHNN và sở hữu toàn dân (đã ghi trong Hiến pháp). Cụ thể là, cần xây dựng hoặc sửa đổi các luật như: Luật về tài sản, trong đó có phân biệt loại tài sản (bất động sản và động sản, tài sản hữu hình và vô hình, tài sản là tư liệu sản xuất và tài sản là tư liệu tiêu dùng, tài sản có thể thay thế và tài sản không thể thay thế…). Sửa đổi Luật DNNN, nhằm xác định rõ quan hệ tài sản giữa DNNN với Nhà nước. Các DNNN phải là các chủ thể pháp luật độc lập. Để làm được việc đó, nên chăng, để cho DNNN thay mặt Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản cụ thể của doanh nghiệp. Xây dựng luật đăng ký tài sản và Luật thuế về tài sản. Ban hành Luật Quản lý tài sản quốc gia để đảm bảo quản lý hiệu quả tài sản quốc gia.
Ngoài ra, để đảm bảo quyền tự chủ, tự định đoạt của DNNN, với tư cách là chủ thể pháp luật độc lập, cần thành lập Công ty mua bán nợ và tài sản của DNNN để xử lý nợ và tài sản không cần dùng, tạo điều kiện lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp. Làm như vậy mới hy vọng có thể giải quyết những vấn đề tồn đọng, gây cản trở quá trình cổ phần hóa DNNN; về nợ ODA, về lỗ của DNNN…
Việc xây dựng mới hoặc sửa đổi các Luật nêu trên cần được đặt trong chuỗi các việc làm về pháp luật phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế đó là: rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam trên cơ sở đối chiếu, so sánh với các chuẩn mực quốc tế, bảo đảm cho việc thực hiện các cam kết quốc tế, hội nhập quốc tế. Ví dụ như tiếp tục chuẩn bị, ký kết, tham gia các điều ước quốc tế trong lĩnh vực thuế, đầu tư, thương mại, vay vốn, thanh toán quốc tế, sở hữu trí tuệ, công ước về bảo vệ môi trường, gia nhập WTO…
2. Điều kiện về sự minh bạch của sở hữu Nhà nước.
Trong kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, thuật ngữ “minh bạch” không chỉ được dùng trong hạch toán, kiểm toán, mà còn được dùng rộng rãi trong các hoạt động kinh tế, xã hội, đến cả lĩnh vực sở hữu. Muốn phát triển kinh tế, cần thực hiện sự minh bạch về sở hữu. Chính sự minh bạch sở hữu sẽ thúc đẩy sự công bằng xã hội và do đó, thực hiện xã hội dân chủ, văn minh.
Đồng thời với đổi mới tư duy kinh tế, chúng ta đã đổi mới nhận thức về sở hữu, cùng với sự minh bạch về sở hữu. Ngoài việc thừa nhận hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, chúng ta đã thừa nhận các hình thức sở hữu khác như sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp.v.v… Một ví dụ về sự minh bạch sở hữu là vấn đề khoán 10 trong nông nghiệp. Đó là sự minh bạch về quyền sở hữu giữa nông dân và Nhà nước. Tiến trình cổ phần hóa DNNN cũng chính là quá trình làm minh bạch sở hữu trong DNNN, tạo động lực phát triển mới. Tính minh bạch của SHNN trong DNNN tiến hành cổ phần hóa thể hiện trực tiếp ở việc xác định giá trị doanh nghiệp, sau đó là lượng cổ phần Nhà nước nắm giữ (lượng cổ phiếu khống chế hay không khống chế) lượng cổ phiếu bán trong nội bộ doanh nghiệp và lượng cổ phiếu bán ra ngoài. Khi xác định được giá trị doanh nghiệp, Nhà nước mới có dịp thấy rõ mình làm chủ sở hữu về mặt giá trị doanh nghiệp đến đâu. Trên cơ sở đó, Nhà nước mới thực hiện một cách chính xác quyền chuyển dịch quyền sở hữu (bằng các hình thức như bán, cho thuê, uỷ quyền.v.v…). Bằng cách nào đó, Nhà nước có thể vừa tiếp tục là nhà đầu tư trong doanh nghiệp đã cổ phần hóa, vừa rút một phần vốn để đầu tư vào lĩnh vực khác. Tuy nhiên, trong tiến trình cổ phần hóa hiện nay, người ta thấy rất rõ sự liên quan giữa tính minh bạch của SHNN với vấn đề gọi là “hậu cổ phần hóa”. Tâm lý là một yếu tố cản trở quá trình cổ phần hóa, làm cho cổ phần hóa bị chậm lại. Vì người ta sợ cổ phần hóa xong, các ưu tiên đối với doanh nghiệp bị cắt giảm, không còn như khi nó chưa cổ phần hóa. Các đơn vị trong diện phải cổ phần hóa còn có điều lo ngại là doanh nghiệp cổ phần sẽ bán bớt một phần vốn Nhà nước do doanh nghiệp quản lý ra công chúng (dưới dạng cổ phiếu) để rút vốn về đầu tư vào lĩnh vực khác, khi đó sẽ đưa Công ty cổ phần này thành công ty cổ phần có ít hoặc dần dần không có vốn Nhà nước. Do đó, những ưu đãi trước đây không còn, mà có thể bị cắt những hợp đồng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp đối với Tổng Công ty của nó trước khi cổ phần hóa. Theo thống kê, hiện tại, không ít hơn 60% số sản phẩm của các doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hóa của Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông, được Tổng Công ty này bao tiêu. Do đó, nếu mất đi sự ưu đãi về thị trường, doanh nghiệp kể trên có nhiều khả năng bị phá sản, do đặc thù sản phẩm của ngành này là cung cấp nội bộ. Vì vậy, để đảm bảo tính minh bạch của SHNN ở doanh nghiệp cổ phần hóa, Nhà nước phải tuyên bố lượng cổ phần Nhà nước nắm giữ có tính lâu dài trong doanh nghiệp. Nhà nước cũng phải với tư cách là một nhà đầu tư, cùng chịu sự rủi ro của thị trường đưa lại (nếu có) như những cổ đông khác. Nếu vốn điều lệ của doanh nghiệp tăng lên do phát hành thêm cổ phiếu, thì vốn Nhà nước tại doanh nghiệp cũng được tăng lên theo tỷ lệ tương đương.
3. Điều kiện về chủ đích thực của SHNN ở DNNN, doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài và doanh nghiệp đã cổ phần hóa từ DNNN.
Một vài kinh nghiệm của Trung Quốc về quản lý tài sản quốc hữu
Sau 10 năm tìm tòi giải pháp quản lý tài sản quốc hữu ở thành phố Thâm Quyến, bước đầu đã đưa ra được "giải pháp Trung Quốc" về vấn đề này.
Vào năm 1987, trên cơ sở tách riêng chức năng quản lý tài sản quốc hữu ra khỏi chức năng quản lý xã hội và chức năng quản lý kinh tế nói chung của chính quyền, Công ty quản lý đầu tư thành phố Thâm Quyến đã được thành lập. Công ty này đã ra sức đẩy mạnh cải tạo chế độ cổ phần, tăng cường trưng thu tiền lãi sau khi xí nghiệp nộp thuế và quản lý giám sát tài vụ, bảo đảm tài sản quốc hữu không những được bảo toàn, mà còn gia tăng. Đến năm 1993, Thâm Quyến lại cải tiến thể chế quản lý tài sản quốc hữu, đã thành lập ủy ban quản lý tài sản quốc hữu (với văn phòng của nó) và từng bước chuyển chức năng quản lý hành chính của Công ty quản lý đầu tư thành phố sang cho văn phòng này. Sau đó, để xây dựng cơ chế cạnh tranh, ngăn chặn sự kinh doanh độc quyền tài sản quốc hữu, Thâm Quyến lại lần lượt đổi tập đoàn xây dựng và tập đoàn vật tư của thành phố thành Công ty vận hành kinh doanh tài sản và cùng với Công ty quản lý đầu tư thành phố gộp toàn bộ hơn 100 xí nghiệp cấp một thuộc thành phố vào hệ thống quản lý, bước đầu hình thành hệ thống quản lý tài sản quốc hữu mới theo khung ba tầng "ủy ban quản lý tài sản quốc hữu thành phố - Công ty kinh doanh tài sản cấp thành phố - Xí nghiệp".
Tầng thứ nhất: ủy ban quản lý tài sản quốc hữu thành phố chuyên đưa ra các quyết sách, nhằm quản lý tài sản quốc hữu, do chính quyền thành phố ủy quyền. ủy ban này tiến hành quản lý vĩ mô và giám sát toàn diện tài sản có tính kinh doanh, tài sản phi kinh doanh và tài sản có tính tài nguyên của Nhà nước thuộc thành phố; đồng thời trực tiếp thực hiện quyền quản lý đối với ba công ty kinh doanh tài sản quốc hữu cấp thành phố.
Tầng thứ hai: Công ty kinh doanh tài sản quốc hữu cấp thành phố. Những công ty này có nhiệm vụ bảo toàn và làm tăng giá trị tài sản quốc hữu, chịu trách nhiệm trước ủy ban quản lý tài sản quốc hữu và đặc biệt là chịu sự giám sát của ủy ban này. Công ty kinh doanh tài sản quốc hữu (không phải là tập đoàn xí nghiệp trực tiếp sản xuất kinh doanh) thông qua các hình thức kinh doanh tiền vốn để vận hành quyền sở hữu tài sản như: đầu tư, khống chế cổ phần, tham gia cổ phần, tổ chức lại tài sản để quản lý, giám sát, tổ chức xây dựng xí nghiệp quốc hữu.
Tầng thứ ba: Các xí nghiệp có vốn độc lập, các xí nghiệp tham gia cổ phần, các xí nghiệp có cổ phần khống chế của Nhà nước thuộc thành phố. Là pháp nhân xí nghiệp độc lập, quan hệ giữa xí nghiệp này với Công ty kinh doanh tài sản không phải là quan hệ cấp dưới với cấp trên, mà là quan hệ giữa pháp nhân xí nghiệp với Nhà nước.
Công ty kinh doanh tài sản thông qua hội nghị cổ đông, hội đồng quản trị cùng với xí nghiệp trực thuộc ký "Biên bản trách nhiệm kinh doanh tài sản" trao quyền cho xí nghiệp quốc hữu tiến hành hoạt động kinh doanh cụ thể. Xí nghiệp quốc hữu sử dụng tài sản quốc hữu được giao tự chủ kinh doanh theo pháp luật, tự chịu lỗ lãi, có trách nhiệm bảo toàn và tăng giá trị tài sản quốc hữu. Các chỉ tiêu được sử dụng ở xí nghiệp quốc hữu là ba hệ thống chỉ tiêu: về tài sản (tổng tài sản, tài sản ròng), thuế lãi (tổng lãi, thuế của lãi nộp lên trên), doanh thu (số doanh thu, tổng số ngoại tệ đã thu được).
Như vậy, xí nghiệp quốc hữu là pháp nhân, có quyền chi phối tài sản xí nghiệp, đồng thời là công ty kinh doanh tài sản, có trách nhiệm hữu hạn. kết quả là, tính đến năm 1997, tổng vốn đầu tư của xí nghiệp quốc hữu nhà nước và xí nghiệp có cổ phần khống chế của Nhà nước thuộc Thâm Quyến đã lên đến hơn 140 tỉ Nhân dân tệ (trong vòng 17 năm đã tăng hơn 800 lần).
Có thể rút ra nhận xét sau về "khung ba tầng" quản lý tài sản quốc hữu của Thâm Quyến:
- Khi xây dựng "khung ba tầng" về quản lý tài sản quốc hữu, Thâm Quyến đã tạo ra một hệ thống quản lý với những chức trách rõ ràng, không chồng chéo, từ quản lý vĩ mô đến vi mô về tài sản. Nếu tầng thứ nhất trọng tâm là quản lý vĩ mô về tài sản, không chỉ tài sản thuộc doanh nghiệp quốc hữu, mà còn cả tài sản thuộc tài nguyên nói chung. Còn tầng xí nghiệp, chủ yếu là quản lý vi mô, hướng hẳn vào kinh doanh tài sản, vừa bảo toàn vừa tăng cường tài sản quốc hữu. Quản lý tài sản có tính hệ thống như vậy, với hệ thống thanh tra nghiêm ngặt, khó có kẽ hở cho sự thất thoát tài sản.
- Với "Biên bản trách nhiệm kinh doanh tài sản", Công ty kinh doanh tài sản đã trao quyền cho xí nghiệp quốc hữu tiến hành hoạt động kinh doanh cụ thể. Trong biên bản đó, cụm từ "trách nhiệm kinh doanh" đã làm rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của doanh nghiệp. Đồng thời, trong biên bản đó cũng nói rõ kinh doanh tài sản. Có thể nói, việc dùng thuật ngữ "tài sản" khác hẳn với việc dùng thuật ngữ "vốn" (như chúng ta đang dùng khi trao vốn cho DNNN). Một đằng dùng từ "vốn" tức là nhấn mạnh ý nghĩa tiền tệ, một đằng dùng từ "tài sản" tức là muốn nhấn mạnh cả ý nghĩa tiền tệ lẫn ý nghĩa hiện vật với nội dung kinh tế phong phú của tài sản (như: bất động sản và động sản, tài sản hữu hình và vô hình, tài sản là tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, tài sản có thể thay thế và tài sản không thể thay thế v.v...)
3.2. Điều kiện về chủ đích thực SHNN ở doanh nghiệp
Nếu như ở phần trên đã nói về tính minh bạch trong sở hữu làm căn cứ quan trọng cho hoạt động quản lý thì ở đây, sẽ đề cập đến điều kiện về chủ đích thực SHNN ở DNNN và doanh nghiệp đã cổ phần hóa từ DNNN.
Để khởi đầu việc phân tích, đánh giá vấn đề chủ đích thực của SHNN ở DNNN, cần đi từ một cách tiếp cận thông thường, đó là DNNN làm ăn thua lỗ, do không có chủ đích thực (vô chủ), người ta dễ đổ lỗi cho vấn đề sở hữu trong DNNN. Muốn biết thực hư ra sao, chúng ta thử nghiên cứu cái gọi là lỗ trong các DNNN trong khoảng thời gian từ năm 1998 đến năm 2003(2): năm 1998 có 20% số DNNN bị thua lỗ, năm 2000 là 29%, năm 2002 là 15,8%. Như vậy, số DNNN bị thua lỗ đã giảm xuống khá nhiều, ngược lại, số DNNN làm ăn có lãi đã tăng lên, nếu năm 1998 và 000 chỉ có 40% thì năm 2002 đã tăng lên đến 76,9%.
Lúc đó, các DNNN vẫn chịu sự điều chỉnh của luật DNNN nhưng sự lỗ lãi đã thay đổi theo chiều hướng tích cực. Qua đó có thể nhận thấy rằng vấn đề sở hữu không phải là vấn đề quyết định (tuy rất quan trọng) sự thành bại trong kinh doanh của DNNN. Tuy vậy, cũng cần xem xét kỹ hơn vấn đề lỗ ở DNNN. Lỗ ở các nước sẽ dẫn doanh nghiệp đến chỗ phá sản. Còn lỗ ở các DNNN của nước ta có làm cho doanh nghiệp đi đến phá sản? Câu trả lời còn bỏ ngỏ. Ví dụ, các DNNN ngành mía đường làm ăn thua lỗ nhiều nghìn tỷ đồng (có thông tin cho hay là lỗ 3000 tỷ đồng!!!). Mỗi một kg đường bán ra, lỗ vốn 1000đ. Nhiều doanh nghiệp xin cô-ta bán lỗ đường sang Inđônêxia... Cả nước có 45 nhà máy đường thì có tới 38 nhà máy đang thua lỗ(3). Không lỗ sao được khi năng suất đường của các DNNN chỉ bằng 2/3 năng suất của các nước trong vùng. ở đây lại có điệp khúc "lãi ăn lỗ không chịu" và như vậy ông chủ sở hữu là Nhà nước lại phải gánh chịu. Có ý kiến cho rằng (ý kiến gần đây khi thảo luận ở Quốc hội về dự thro luật DNNN sửa đổi) phải có biện pháp điều chỉnh, xử lý hay giải thể các doanh nghiệp làm ăn không có lãi. ý kiến khác lại cho rằng, Nhà nước cần hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, có cơ chế giám sát chặt chẽ, tiêu chuẩn hóa quyền hạn của giám đốc DNNN. Có ý kiến còn cảnh báo rằng, nếu Luật DNNN sửa đổi không giải quyết tốt vấn đề SHNN đối với DNNN thì tình trạng "vô chủ" vẫn có thể xảy ra.
ở các doanh nghiệp cổ phần, quyền và trách nhiệm đối với tài sản được phân định rõ ràng: cổ đông sở hữu vốn, Công ty sở hữu tài sản và toàn quyền định đoạt đối với tài sản: mua bán, cho thuê v.v... ở đây có một điều ngạc nhiên thú vị là: khi Nhà nước nắm cổ phần khống chế (đến 51%) và công ty nắm số vốn đó của Nhà nước thì được sở hữu tài sản do số vốn đó sinh ra, còn khi Nhà nước giao 100% vốn (lớn hơn con số 51% nói trên rất nhiều) cho DNNN thì DNNN vẫn không được sở hữu tài sản do số vốn đó đẻ ra. Việc có quyền sở hữu tài sản, định đoạt đối với tài sản và tự chủ trong phân phối thu nhập chính là nguyên nhân quan trọng dẫn đến thành công trong sản xuất kinh doanh của các công ty này trong thời gian vừa qua. Chẳng hạn như về thu nhập (4): tính đến hết năm 2002, người lao động trong các công ty cổ phần ( cổ phần hoá DNNN) đã thu thêm 51 tỷ đồng, Chính phủ thu thêm 8 tỷ đồng, chủ sở hữu bao gồm cả Nhà nước và các thành viên khác trong xã hội thu thêm 130 tỷ đồng so với trước cổ phần hoá. Như vậy, có một vấn đề đặt ra cần được giải đáp về lý luận và thực tiễn là, có nên đặt ván đề Nhà nước là người sở hữu vốn trong DNNN (sở hữu về mặt giá trị) còn DNNN được sở hữu tài sản trong DNNN. DNNN với cán bộ nhân viên của mình vừa là người làm công vừa là người chủ (với tư cách là người chủ sở hữu toàn dân) tại sao lại không đáng được sở hữu tài sản DNNN.
Đối với doanh nghiệp do Nhà nước bỏ vốn ra liên doanh với nước ngoài thì sao? Trong thực tế, có những bằng chứng thể hiện sự thua thiệt của phía Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. Xin đơn cử một ví dụ về các liên doanh trong ngành Du lịch.
Các đối tác nước ngoài tham gia liên doanh trong ngành Du lịch phần lớn là những công ty con trong những tập đoàn khách sạn - du lịch lớn ( tập đoàn mẹ), hoạt động trên phạm vi toàn thế giới. Chính đó là một điều kiện thuận lợi để các đối tác khai vống giá thiết bị, nâng giá đầu vào, hạ giá đầu ra thông qua việc chuyển giá cho các tập đoàn mẹ, để thu lợi nhuận từ bên ngoài ngay từ đầu và hạch toán lỗ cho liên doanh mà bên phía Việt Nam trong liên doanh không có khả năng kiểm soát. Hơn nữa, để đạt được mục tiêu chiếm lĩnh thị phần, họ thực hiện chính sách tiếp thị, khuyến mại, quảng cáo với chi phí rất lớn và bán sản phẩm của mình với giá thấp, thậm chí chấp nhận lỗ trong thời gian đầu. Bên Việt Nam trong liên doanh không đủ sức chịu đựng được chiến lược đó của họ, nên thường phải chuyển nhượng lại phần vốn góp trong liên doanh cho phía nước ngoài. Nhiều doanh nghiệp địa phương khi liên doanh với nước ngoài cũng phản ảnh tình trạng tương tự như của ngành Du lịch vừa nêu. Như vậy, hiện tượng "mất vốn" của Nhà nước lại diễn ra trên ngay sân chơi của nước chủ nhà. Rõ ràng ở đây, đặt vấn đề là chúng ta phải có những nghiên cứu và quyết sách đúng đắn về SHNN trong doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư bản Nhà nước này.
4. Điều kiện về sử dụng có hiệu quả vốn của chủ SHNN.
Trước khi bàn cụ thể về các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Nhà nước ở doanh nghiệp, cũng cần nêu bức tranh tổng thể về cơ cấu lại DNNN từ nay đến cuối năm 2005. Theo số liệu của 103 đề án của các Bộ, ngành, địa phương và tổng công ty "91" đã được Thủ tướng phê duyệt ( tính đến giữa tháng 5 năm 2003) đến cuối năm 2005, sẽ chỉ còn lại khoảng 1900 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn. Các doanh nghiệp này phần lớn hoạt động công ích, như: điện chiếu sáng,vệ sinh môi trường, quản lý thuỷ nông đầu nguồn... hoặc là doanh nghiệp có tính đặc thù ngành, nghề hay lĩnh vực đặc thù, độc quyền, các nông - lâm trường.
Đối với các doanh nghiệp công ích cần được đánh giá hiệu quả bằng chỉ tiêu về mặt phục vụ xã hội, kết hợp với hạch toán tiết kiệm.
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh thông thường, thuộc lĩnh vực Nhà nước nắm 100% vốn, thì phải tạo lập kịp thời cơ chế để đảm bảo đủ vốn điều lệ cho doanh nghiệp hoạt động ( qua rà soát hơn 5000 DNNN, hầu hết trong số đó đang bị thiếu vốn điều lệ). Trong điều kiện hiện nay, chúng ta đang có cơ hội để tăng vốn của các DNNN; Nhà nước đang nắm giữ nguồn vốn thu được từ cổ phần hoá. Bởi vậy, nếu thực hiện tốt việc tăng vốn thì các doanh nghiệp sẽ có điều kiện để hoạt động có hiệu quả lớn.
Ngoài ra, để có vốn hoạt động, các DNNN có thể đi vay vốn. Do đó, cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, nhằm tăng năng lực hoàn trả vồn vay. Để góp phần thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, cần lưu ý các vấn đề sau:
- Xem xét lại cơ cấu và quy mô vốn trong điều kiện thị trường mà doanh nghiệp chiếm lĩnh, mạnh dạn thanh lý hoặc chuyển nhượng những thiết bị không sử dụng được để giải phóng vốn, tăng nhanh vòng quay của vốn, giảm bớt tình trạng mất cân đối trong cơ cấu vốn.
- Lựa chọn nguồn vốn vay phù hợp nhất với điều kiện của doanh nghiệp. Thông thường, người ta tìm kiếm những nguồn vốn có phí tổn sử dụng vốn thấp hơn mức sinh lời của vốn được sử dụng tại doanh nghiệp.
Tăng cường sự trợ giúp của Nhà nước về mặt tín dụng đối với doanh nghiệp như: xây dựng quy chế bảo lãnh tín dụng, quy chế quản lý tài sản thế chấp, quy chế đánh giá tài sản thế chấp.v.v...
5. Điều kiện về chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư phát triển.
Vấn đề thất thoát này đã được đề cập trong Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương khoá VIII:" Đất đai, vốn, tài sản Nhà nước chưa được quản lý chặt chẽ, sử dụng lãng phí và thất thoát nghiêm trọng".
Nhiều văn bản chính luận và báo chí cũng đề cập đến vấn đề đó. Có tác giả đã thử tính tỉ lệ thất thoát khoảng 25% vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Nếu lấy tổng vốn đầu tư công cộng ( tức là đầu tư phát triển) ở nước ta trong 5 năm ( 2001- 2005) sẽ là 517.800 tỷ đồng thì số thất thoát sẽ lên đến 129.450 tỷ đồng.
Nhiều tác giả cũng đã nêu ra nguyên nhân của sự thát thoát trên ở cả hai mặt lý luận và thực tiễn. Công tác lý luận về kinh tế Nhà nước, DNNN chưa làm rõ được vai trò, vị trí của kinh tế Nhà nước, DNNN. Còn có sự hiểu khác nhau, nên hành động trong quản lý, sử dụng cũng khác nhau. Luật pháp vừa thiếu đồng bộ, vừa thi hành không nghiêm, cơ chế tự chủ gắn với trách nhiệm không rõ ràng. Thêm vào đó, công tác kiểm tra, kiểm soát không công tâm, pha lẫn cá nhân, trục lợi.
Theo kết quả khảo sát 727 thiết bị và 3 dây chuyền nhập khẩu của 42 cơ sở của một ngành do Viện Bảo hộ lao động tiến hành, có đến 76% thiết bị, máy móc nhập khẩu thuộc thế hệ thập kỷ 50-60, trên 70% đã hết khấu hao. Theo số liệu khảo sát nhiều xí nghiệp thuộc 7 ngành của Bộ Khoa học - Công nghệ, máy móc, thiết bị, dây chuyền sản xuất của nước ta lạc hậu so với thế giới từ 10 đến 20 năm. Hậu quả là năng lực cạnh tranh của các sản phẩm do các doanh nghiệp làm ra rất thấp. Một số mặt hàng sản xuất trong nước như sắt, thép, phân bón, xi măng, kính xây dựng... có mức giá cao hơn giá các mặt hàng cùng loại được nhập khẩu từ 20 đến 40%, cá biệt có mặt hàng đường thô cao hơn tới 70- 80%. Đến tháng 6 năm 2003, cả ngành Mía đường lao đao, họ phải bán lỗ, xuất lỗ, kìm hàng trong kho ( dù biết là sai luật)... Như vậy, không hướng ngoại được thì hướng nội chăng và hướng nội cũng chẳng được thì sao? Kết quả cuối cùng là người chủ sở hữu chi vốn ra để doanh nghiệp chi tiêu phí phạm, không những không mang lại lợi ích mà còn làm hao mòn, thất thoát vốn của chủ SHNN. Thất thoát lớn nhất ở đây là từ tiền vốn biến thành tài sản hữu hình - với công nghệ "cuối đường ống" do các trung tâm công nghệ thế giới thải ra và tất nhiên là "thiệt đơn, thiệt kép".
Đó là sự thất thoát, còn chống nó bằng cách nào? Trước tiên là điều "nói mãi rồi", nhưng vẫn phải nói lại: Gắn chặt quyền và trách nhiệm của người quyết định đầu tư, chủ dự án và chủ thầu. Tuy vậy, nếu những người thừa hành ( cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp nói chung) không có phản ứng lại những điều sai sót của những người kể trên, cứ thi hành nhiệm vụ một cách mù quáng, cuối cùng gây thất thoát tài sản của nhà nước, cũng phải liên đới chịu trách nhiệm. Cần phát huy sức mạnh tổng hợp trong quản lý tài sản công, ngân sách Nhà nước của nhân dân, cơ quan thông tin đại chúng.v.v... mặt khác, cần nhanh chóng hoàn thiện chính sách, thể chế quản lý tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, đồng thời với việc tăng cường hiệu lực của công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát về lĩnh vực này.
6. Điều kiện về mối tương tác giữa việc sử dụng vốn của Nhà nước ở các doanh nghiệp và thị trường vốn ở nước ta.
Như trên đã nói, qua rà soát hơn 5000 DNNN, hầu hết trong số này đang trong tình trạng thiếu vốn điều lệ.
Dù rằng thiếu vốn hay sẽ có đủ vốn trong tương lai thì DNNN vẫn phải giữ mối tương tác với thị trường vốn ( TTV) vì TTV ở nước ta đã hình thành và phát triển và đem lại lợi ích thiết thực cho các doanh nghiệp tham gia vào thị trường loại này. Trong thực tế, nhờ có hoạt động của TTV, các DNNN đã có thể lựa chọn các phương thức tài trợ hữu hiệu hơn. Khi tiếp cận các thị trường trái phiếu, cổ phiếu, thị trường cho thuê.v.v.... các DNNN đã ít lệ thuộc hơn vào nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước và có thêm khả năng thu hút các nguồn tiết kiệm trong dân cư hoặc vốn đầu tư nước ngoài.. Ngược lại nhìn từ phía TTV, nếu TTV chưa thật phát triển, các định chế tài chính hoạt động kém hiệu lực, danh mục công cụ tài chính thiếu đa dạng cũng sẽ cản trở hoạt động của DNNN, do đó cũng cần có những giải pháp nhằm phát triển TTV.
Có một số chỉ tiêu thường được dùng để đánh giá tầm quan trọng của TTV trong nền kinh tế quốc dân, đó là tỷ lệ tổng giá trị thị trường trên GDP. Hầu hết các nước phát triển đều duy trì tỷ lệ này ở mức cao: Anh 183%, Mỹ 153%, Pháp 112%; Nhật Bản 67%, Singapore 168%...TTV ở nước ta còn kém phát triển: tỉ lệ tổng giá trị thị trường trên GDP chỉ có 0,1%.
Tuy vậy, khả năng mở TTV nói chung và thị trường cổ phiếu là đáng kể. Theo ước tính, trong số 6300 DNNN, đã có đến 1100 doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần. Trong số các công ty cổ phần đó, có 129 doanh nghiệp có giá trị trên 10 tỷ đồng. ước tính có từ 50%- 60% trong số 129 công ty này đáp ứng được các tiêu chuẩn niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, chỉ mới có 21 công ty niêm yết, với 1046 tỷ đồng. Các chứng khoán được niêm yết hiện đang được giao dịch một cách sôi động trên thị trường phi tập trung ( OTC).
Ngoài ra, việc tiếp cận thị trường vốn quốc tế cũng là một kênh huy động vốn, giúp các doanh nghiệp nói chung và DNNN nói riêng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế. Việc phát triển lĩnh vực dịch vụ tài chính (bảo hiểm, kế toán kiểm toán, tư vấn tài chính, thuế) cũng góp phần huy động được nguồn lực tài chính trong và ngoài nước.
7. Điều kiện về tăng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp có sử dụng vốn của Nhà nước trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp có sử dụng vốn của Nhà nước, sau đây gọi tắt là DN ( gồm DNNN, doanh nghiệp cổ phần có vốn góp của Nhà nước, liên doanh giữa Nhà nước và tư nhân trong và ngoài nước....) là năng lực tồn tại, duy trì hay gia tăng lợi nhuận, thị phần trên thị trường nói chung ( cả trong và ngoài nước) của các sản phẩm và dịch vụ doanh nghiệp. Đó chính là tính năng động sáng tạo, vươn mạnh ra thị trường, đương đầu với mọi thách thức và cố gắng liên tục của DN trong bối cảnh hội hập kinh tế quốc tế ( nhất là khi nước ta sẵn sàng ra nhập WTO).
Có nhiều yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của DN bao gồm các yếu tố trong và ngoài DN.
Các yếu tố do DN chi phối như sau:
- Chiến lược kinh doanh dựa trên sự phân tích thị trường, lợi thế so sánh, tập trung vào những sản phẩm dịch vụ có lợi thế cạnh tranh....
- Trình độ khoa học công nghệ, tiếp cận công nghệ mới, nghiên cứu và triển khai là những yếu tố quyết định rất lớn đến chất lượng của sản phẩm:
- Sản phẩm: Bên cạnh chất lượng, tính năng, kiểu dáng, tính độc đáo hay sự khác biệt, sự nổi bạt so với sản phẩm khác, bao bì cũng là nhân tố rất quan trọng.
- Năng suất lao động: Bao gồm các yếu tố liên quan đến người lao động cũng như các nhân tố tổng thể về năng suất lao động; đào tạo, tổ chức lao độngv.v.....
- Chi phí sản xuất và quản lý: Bao gồm những chi phí sản xuất kinh doanh và những chi phí quản lý.
- Đầu tư cho nghiên cứu phát triển, thương hiệu, kiểu dáng công nghiệp.
* Các yếu tố ngoài doanh nghiệp như:
- Sự tham gia của các đối thủ cạnh tranh.
- Khả năng xuất hiện sản phẩm thay thế, tính độc đáo của sản phẩm.v....
- Vị thế của DN cung ứng sản phẩm hoặc dịch vụ.
- Vị thế đàm phán của bên người mua
- Sức cạnh tranh trên thị trường của DN trong và ngoài nước.
Thông thường, đối với các yếu tố ngoài doanh nghiệp, DN rất chú ý đến các đối tác cạnh tranh. Đối với các đối tác cạnh tranh, người ta đã khái quát thành 3 hướng chiến lược có thể dùng đó là: đàm phán ( hợp tác hành động, định giá chung, hợp đồng mua giấy phép sản xuất....), ngăn cản ( tẩy chay và từ chối cung ứng...), tích tụ ( hợp nhất mở rộng thị trường, chia lại thị trường). Xu thế thế giới hiện nay là sáp nhập thành các công ty siêu lớn để mở rộng và phân chia thị trường. ở ngay tại Việt Nam, thời gian vừa qua, các nhà đầu tư nước ngoài cũng tìm cách sáp nhập, biến liên doanh (với phía Việt Nam) thành công ty 100% vốn nước ngoài. Các DN Việt Nam còn ít coi trọng sự liên hợp hoá, tập trung hoá ( theo chiều đọc, ngang) để tích tụ và tập trung vốn, liên kết thị trường nhằm chống lại sức ép của các đối tác nước ngoài.
Khi nghiên cứu năng lực cạnh tranh, ngoài việc nghiên cứu năng lực cạnh tranh của DN, cũng cần nghiên cứu năng lực cạnh tranh của hàng hoá của các ngành kinh tế kỹ thuật mà DN tham gia sản xuất, cung ứng.
Hiện nay, ở nước ta, nhiều người cho rằng, đánh giá năng lực xuất khẩu của một loại sản phẩm nào đó là yếu tố cơ bản đánh giá năng lực cạnh tranh của Việt Nam, do thị trường nội địa nhỏ, sức mua hạn hẹp, nên hướng xuất khẩu là chiến lược quan trọng ( đúng với chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu). Khi đánh giá năng lực cạnh tranh của hàng hoá, ví dụ như hàng hoá công nghiệp Việt Nam các nhà nghiên cứu đã chia thành 3 nhóm có năng lực cạnh tranh khác nhau.
Ngành hàng có khả năng cạnh tranh, ngành hàng có khả năng cạnh tranh có điều kiện, ngành hàng không có khả năng cạnh tranh. Cụ thể như:
Ngành hàng có khả năng cạnh tranh
+ Ngành may mặc và da giầy
+ Ngành chế tạo cấu kiện kim loại ( cấu kiện cho các công trình thuỷ điện, cột truyền tải điện lớn.v.v..).
+ Ngành hàng có khả năng cạnh tranh có điều kiện:
+ Ngành cơ khí: Muốn cạnh tranh được, ngành này còn phải nhanh chóng đổi mới công nghệ để tạo sản phẩm mới, mẫu mã mới, có chất lượng cao hơn.
+ Ngành thiết bị điện: Muốn cạnh tranh được, ngành này phải đổi mới công nghệ cho các sản phẩm như dây và cáp điện, động cơ điện, máy biến thế.v.v....
+ Ngành điện tử và công nghệ thông tin: Ngành này còn có sự mất cân đối về cơ cấu sản phẩm, đa phần tập trung vào nhóm sản phẩm ti vi, radio, cassette; các nhóm sản phẩm khác còn phải nhập khẩu là chính. Các ngành hàng điện tử công nghiệp còn chưa được đầu tư phát triển nhiều.
+ Ngành hoá chất: Nhiều loại sản phẩm ngành này có khả năng cạnh tranh thấp.
+ Ngành sành sứ thuỷ tinh: Nhìn chung, suất tiêu hao nguyên liệu còn cao, mẫu mã chưa phong phú, giá thành cao, do đó cần tìm mọi cách khắc phục các nhược điểm đó mới có khả năng cạnh tranh quốc tế.
+ Ngành hàng không có lợi thế cạnh tranh. Ví dụ hoá chất hữu cơ cơ bản, hoá chất vô cơ cơ bản, thăm dò dầu mỏ và khí.v.v....
Tuy rằng, giải pháp cụ thể để nâng cao nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm thuộc các ngành kinh tế kỹ thuật do các DN thuộc các ngành đó đưa ra, nhưng điều muốn nhấn mạnh ở đây là, chỉ có nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN cả ở thị trường trong và ngoài nước, giải quyết đầu ra của sản xuất, mới đảm bảo hiệu quả hoạt động của cả nền kinh tế và do đó, góp phần thực hiện SHNN tại các DN có vốn của Nhà nước một cách hữu ích.