Gian nan bước đột phá
TCCT: Thưa ông, sau này khi nói về thời kỳ đầu của công cuộc Đổi mới, vì sao ta thường đánh giá Chỉ thị 100 là một bước đột phá về tư duy, trước hết là tư duy kinh tế?
Ông Nguyễn Tiến Năng: Theo tôi, điều này phải thấy ở một bối cảnh rộng hơn vào những năm 80 của thế kỷ trước. Lúc đó, theo quan niệm chính thống, chúng ta tin rằng, làm ăn tập thể ưu việt hơn làm ăn cá thể. Kinh tế cá thể tự phát dẫn đến phân hóa giàu nghèo, trong khi làm ăn tập thể sẽ tạo sức mạnh, giải quyết hài hòa những vấn đề kinh tế - xã hội. Do vậy, HTX được thực hiện đồng nhất với tập thể hóa, và chúng ta cố gắng xóa bỏ sản xuất theo hộ, chỉ cho phép tồn tại hình thức kinh tế phụ gia đình với mảnh đất 5%. Mọi tư liệu sản xuất như ruộng đất, trâu bò, cày bừa… đều thuộc về tập thể; việc sản xuất cũng được tổ chức theo tập thể, dưới sự điều hành của đội sản xuất và Ban chủ nhiệm HTX.
Bên cạnh đó, với mong muốn đẩy quan hệ sản xuất đi trước để thúc đẩy lực lượng sản xuất lên theo, ta cũng có một sự nóng vội là đưa hàng loạt HTX bậc thấp lên bậc cao, nhưng thực sự chưa có những tiến triển rõ rệt trong lĩnh vực nông nghiệp. Cụ thể là, năng suất lúa bình quân giữa năm 1975 và 1980 gần như không thay đổi, lần lượt là 2.120 kg/ha và 2.020 kg/ha; tổng sản lượng lúa chỉ tăng chừng trên 1 triệu tấn, từ 10,29 triệu tấn năm 1975 lên 11,67 triệu tấn năm 1980; bình quân tổng sản lượng lúa trên đầu người chỉ tăng chừng 5 kg, từ 214,7 kg/người năm 1975 lên 219,7 kg/người năm 1980. Chính phủ vẫn phải nhập khẩu gạo để đảm bảo an ninh lương thực.
Trong bối cảnh đó, bà con nông dân ở một số nơi đã thực hiện khoán hộ (khoán chui) với mức độ thành công khác nhau; và Hải Phòng đã rút ra được những bài học kinh nghiệm từ khoán hộ của tỉnh Vĩnh Phú để tổ chức khoán hộ ở xã Đoàn Xá, huyện Đồ Sơn, đạt được hiệu quả khá rõ rệt. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn khoán hộ của Hải Phòng và một số tỉnh, ngày 13/1/1981, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị 100 về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, thường gọi tắt là khoán 100. Khoán 100 đã khôi phục lại chức năng kinh tế hộ gia đình mà trước đó, ta dường như không nhắc đến.
TCCT: Bước đột phá của Chỉ thị 100, bây giờ nghĩ lại có vẻ nhẹ nhàng, nhưng vào thời điểm ấy, có lẽ không đơn giản, thưa ông?
Ông Nguyễn Tiến Năng: Không đơn giản chút nào, bởi trước khi có Chỉ thị 100, quan niệm chính thống về nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH chủ yếu gồm 2 thành phần: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân vẫn là một điều cấm kỵ; tháo gỡ tư duy này không thể một sớm một chiều, và phải được thực tiễn kiểm nghiệm. Tôi xin kể hai câu chuyện sau. Chuyện thứ nhất: Ngày 12/10/1980, trên đường đi thăm Hải Phòng, Thủ tướng Phạm Văn Đồng dừng lại ở Hải Dương. Bí thư Tỉnh ủy Hải Hưng đã báo cáo Thủ tướng rằng, TP. Hải Phòng đã phá nát phong trào hợp tác hóa nông nghiệp bằng cách khoán hộ, và Hải Hưng sẽ là “con đê” ngăn chặn làn sóng khoán hộ của Hải Phòng. Biết chưa thể thuyết phục được lãnh đạo Hải Hưng ngay lúc đó, Thủ tướng chỉ hài hước nói: “Tôi sẽ xem Hải Phòng phá như thế nào”.
Đến Hải Phòng, Thủ tướng phái tôi đến HTX Đoàn Xá, Đồ Sơn. Đến nơi, tôi thấy một không khí lao động hết sức phấn khởi. Hỏi chuyện, ai cũng vui vẻ khoe, từ khi khoán bà con được chủ động hơn, làm việc hiệu quả hơn, năng suất sản lượng cao hơn, làm nghĩa vụ cho Nhà nước đầy đủ. Tôi về báo cáo, Thủ tướng mừng rỡ nói: Đúng, đúng, đó là cái chúng ta đang tìm - quyền làm chủ của người dân. Kết quả buổi làm việc của Thủ tướng tại Hải Phòng đã nhanh chóng lan tỏa đến các đ?a phương khác trong cả nước, giải tỏa phần nào sự lo lắng của bà con, cán bộ vốn đang khoán “chui” như Hải Phòng. Từ thành công của Hải Phòng, tháng 1/1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị 100; tháng 8 năm đó, Hội nghị sơ kết 8 tháng thực hiện khoán sản phẩm cũng đã nhận định, cái “được” của khoán là cơ bản, cái chưa được sẽ tiếp tục hoàn thiện. Thế nhưng, sau Hội nghị, vẫn còn một số cán bộ băn khoăn, liệu làm thế này có đúng với lý luận bấy lâu nay về con đường đi lên CNXH hay không?
Câu chuyện thứ hai: Tháng 7/1983, Chủ tịch nước Trường Chinh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng lên nghỉ và làm việc tại Đà Lạt. Bí thư Thành ủy TP. Hồ Chí Minh Nguyễn Văn Linh đưa một đoàn gồm cán bộ chủ chốt của thành phố và giám đốc các xí nghiệp lớn đến gặp. Từ thực tiễn sản xuất, kinh doanh và cuộc sống của nhân dân thành phố, đoàn kiến nghị Trung ương cho phép thành phố thực hiện thí điểm cơ chế hai giá. Đó là, Nhà nước cân đối cho xí nghiệp bao nhiêu vật tư, thì xí nghiệp làm ra số sản phẩm tương ứng, và bán theo giá nhà nước quy định (đây là quy định của cơ chế cũ), nay xin mở ra, cho phép xí nghiệp mua vật tư trên thị trường (với giá thị trường) khi làm ra sản phẩm được phép bán theo giá thị trường. Chủ tịch và Thủ tướng đều bày tỏ sự thông cảm trước những bức xúc, khó khăn của thành phố, nhưng băn khoăn rằng, làm như vậy là trái với nguyên tắc quản lý kinh tế XHCN. Sang ngày hôm sau, tiếp tục nghe thành phố báo cáo, Thủ tướng đề nghị và được Chủ tịch nước cho phép thành phố làm thử cơ chế mới và nhấn mạnh, cái gì đúng thì khẳng định, cái gì sai thì chỉnh sửa. Với cơ chế mới, các cơ sở sản xuất ở TP. Hồ Chí Minh và sau này là trong cả nước được cởi trói, bung ra mạnh mẽ. Thành tựu quan trọng nhất của nó không chỉ là giải phóng nguồn lực trong dân, mà còn giải phóng lề lối tư duy đang trở nên khô cứng trước thực tế cuộc sống. Từ thực tiễn của cơ chế hai giá, Chính phủ đã ra Quyết định 25/CP và 26/CP về quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh và tự chủ tài chính của các xí nghiệp quốc doanh. Dẫn ra hai câu chuyện trên để phần nào chúng ta hình dung được trong buổi đầu của sự đổi mới tư duy nó gay go, có thể nói là giằng xé và quyết liệt như thế nào.
Mặc dù Chỉ thị 100 và Quyết định 25/CP, 26/CP là những chính sách được tổng kết từ thực tiễn, được thực tiễn kiểm nghiệm, có tác động tích cực đối với đời sống kinh tế xã hội lúc bấy giờ, nhưng phải đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, cán bộ và nhân dân mới hoàn toàn giải tỏa những băn khoăn về con đường đi lên CNXH ở nước ta và đặt trọn niềm tin vào con đường Đổi mới của chúng ta với 3 trụ cột: i. Chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường; ii. Chuyển từ quan niệm 2 thành phần kinh tế (quốc doanh và tập thể) sang chấp nhận nền kinh tế trên con đường quá độ đi lên CNXH có nhiều thành phần kinh tế; iii. Chuyển từ quan niệm thị trường XHCN đối lập với thị trường TBCN sang một nền kinh tế mở, chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Ý Đảng, lòng Dân
TCCT: Thưa ông, vậy khái quát yếu tố làm nên thành công của công cuộc Đổi mới của đất nước là…
Ông Nguyễn Tiến Năng: Thực tiễn cuộc sống. Nhưng mà nói thế chung chung quá. Ta có thể nói khái quát thế này, đó là sự gặp gỡ của ý Đảng - lòng Dân. Nông dân là những người gắn với thực tế sản xuất. Họ là người thấy rõ tận mắt sự trì trệ trong hoạt động nông nghiệp dưới hình thức hợp tác hóa (đã bị biến tướng thành tập thể hóa), vì thế khao khát đi tìm một cách thức làm ăn mà ở đó họ được quyền chủ động suy nghĩ, tính toán làm ăn trên mảnh đất của mình. Trong tình hình hết sức khó khăn về sản xuất, đời sống, người công nhân cũng tìm mọi cách tháo gỡ cơ chế quản lý kinh doanh sao cho có hiệu quả nhất. Sự khát khao đó đã kết trái khi cộng hưởng với những ý tưởng đổi mới tổ chức sản xuất, nâng cao cuộc sống nhân dân của những cán bộ Đảng viên.
Thực tế, trước khi những sáng kiến khoán hộ ở Đoàn Xá, hay sáng kiến về cơ chế hai giá của TP. Hồ Chí Minh, nhiều vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta đã trăn trở rất nhiều về đổi mới tổ chức sản xuất. Trước đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã canh cánh bên lòng việc tổ chức sản xuất ở nông, lâm trường ra sao cho có hiệu quả nhất. Tư tưởng của Thủ tướng lúc ấy là: Nông, lâm trường chỉ nên làm mẫu thôi. Tức là “anh” trồng rừng, quản lý, khai thác rừng như là một hình mẫu cho người dân làm theo. Còn đại bộ phận rừng nên giao cho người dân, mà Thủ tướng khái quát lại là: Để dân trồng, dân hưởng, dân làm chủ. Khi về Vĩnh Phú, Thủ tướng đã ủng hộ đề xuất của lãnh đạo tỉnh về giao đất, giao rừng cho dân. Kết quả là, khi được người dân quản lý và chăm sóc, năng suất và hiệu suất khai thác rừng cao gấp mấy lần so với lúc rừng nằm trong tay nông lâm trường.
Đối với sản xuất công nghiệp, đã có các cuộc vận động cải tiến quản lý xí nghiệp và Thủ tướng đã cử nhiều đoàn cán bộ quản lý của ta ra nước ngoài học hỏi kinh nghiệm. Thủ tướng cũng mời nhiều đoàn cán bộ chuyên gia của Liên Xô, CHDC Đức… sang giúp ta về quản lý kinh tế nói chung và quản lý xí nghiệp nói riêng. Thủ tướng cũng rất trăn trở với việc gắn sản xuất nông nghiệp với công nghiệp, như các nhà máy giấy, nhà máy chế biến nông sản phải gắn với vùng nguyên liệu. Và điều Thủ tướng quan tâm nhiều nhất, là gắn thế nào để người dân làm chủ, “sống” được trên mảnh đất của mình, và muốn vậy phải bàn cách xem người dân góp đất, góp vốn ra sao để họ trở thành thành viên bình đẳng trong phân phối sản phẩm với nhà máy.
Tôi cho rằng, vì luôn trăn trở với đổi mới tổ chức sản xuất sao cho có hiệu quả nhất, người dân được làm chủ và có lợi cho dân nhất, nên Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhanh chóng ủng hộ cách làm của TP. Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh Long An, Vĩnh Phú v.v… Đây thực sự là sự gặp gỡ giữa ý Đảng và lòng Dân.
TCCT: Thưa ông, có thể rút ra một bài học là, muốn cho ý Đảng - lòng Dân gặp nhau thì nhà lãnh đạo phải có kênh thông tin từ cơ sở, để nắm bắt được những sáng kiến cũng như những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân.
Ông Nguyễn Tiến Năng: Chúng ta có các kênh thông tin tốt, nhưng ở đây có 2 vấn đề. Thứ nhất, những thông tin đó có phản ánh trung thực tâm tư, nguyện vọng của nhân dân không? Muốn có thông tin trung thực, thì phải có cán bộ trung thực. Do đó, việc quy hoạch, bồi dưỡng, cất nhắc cán bộ rất quan trọng. Ta làm dân chủ, công khai, minh bạch sẽ lựa chọn được cán bộ tốt, cán bộ trung thực. Năm 1972, khi được cử làm thư ký cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng, trong buổi gặp đầu tiên, ông dặn tôi 5 điều, mà điều đầu tiên là trung thực, thật thà, đặc biệt là khi tiếp nhận thông tin ở các nơi. Điều đó cho thấy, các vị tiền bối cách mạng đặc biệt quan tâm đến việc giữ mối quan hệ với nhân dân, làm sao có thể nhận được thông tin từ nhân dân, từ cơ sở một cách đầy đủ, trung thực nhất.
Thứ hai, các kênh thông tin tốt, nhưng chưa đủ. Là người làm chính sách, hay có ảnh hưởng đến chính sách phải đi cơ sở. Học tập phong cách của Bác Hồ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng rất chịu khó đến với nhân dân.
Công cuộc Đổi mới của đất nước do Đảng ta khởi xướng từ sự sáng tạo của nhân dân. Đột phá trong quản lý nông nghiệp bắt đầu từ Khoán 100 đã đưa Việt Nam từ thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản hàng đầu thế giới. Mở rộng mạnh mẽ quyền tự do kinh doanh với việc ban hành Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài... đã đưa nền kinh tế nước ta ra khỏi trì trệ, phát triển năng động với tốc độ cao.
Mới đây, trong Thông điệp năm 2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định rằng “Nhìn lại gần 30 năm qua, những bước phát triển vượt bậc của đất nước ta đều gắn liền với những đổi mới có tính quyết định về thể chế, bản chất là mở rộng dân chủ, thực hiện cơ chế thị trường trong hoạt động kinh tế mà bước đột phá lớn và toàn diện là từ Đại hội VI của Đảng”. Do đó, chúng ta cần tổng kết một cách toàn diện về công cuộc Đổi mới, rút ra những bài học sâu sắc làm tiền đề cho những đổi mới ở tầm vóc cao hơn.
TCCT: Xin trân trọng cảm ơn ông!