Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Sau suy giảm mạnh của những năm 2008, 2009; nhờ cải thiện kinh tế vĩ mô và thị trường chứng khoán, đầu năm 2010 vốn FDI toàn cầu hồi phục trở lại, song xu hướng này lại sụt giảm khi nhiều công ty đa quốc gia (TNCs) của các nước phát triển rút vốn vay nội bộ từ những công ty con để củng cố tổ chức. Thực trạng đã chỉ ra, dòng vốn lưu chuyển có sự khác biệt giữa các khu vực. Ở các nước phát triển, nguồn FDI giảm chừng 7%; ngược lại, tại những nền kinh tế đang phát triển nguồn đầu tư này lại gia tăng khoảng 10% trong năm 2010 (NCEIF 2011).
Phân tích động thái đầu tư của những nền kinh tế phát triển cho thấy, do lợi nhuận tái đầu tư của công ty con ở nước ngoài tăng cao, Mỹ là nước có chỉ số hồi phục khá nhanh; tổng FDI năm 2010 tăng 56 tỉ USD (tăng 40% so với 2009); ngược lại, ở khu vực châu Âu, dòng vốn FDI lại giảm sút mạnh (Hà Lan tăng trưởng âm, Luxambua và những nước chịu tác động khủng hoảng nợ công giảm trên 66%; những nền kinh tế lớn như Đức, Pháp cũng giảm từ 3,5% đến 3,7%.) Đối với những nền kinh tế đang phát triển, nhờ khả năng hồi phục kinh tế và dòng vốn Nam-Nam tăng khá nên nguồn FDI đã gia tăng nhanh. Riêng dịch vụ mua bán sát nhập (M&A) xuyên quốc gia đã trở thành hình thức hấp dẫn, giữ vai trò ngày càng quan trọng.với mức tăng gấp 2 lần, (NCEIF 2011).
Trong gia tăng FDI của nền kinh tế, khu vực Nam Á, Đông Á, Đông Nam Á và châu Mỹ Latin tăng nhanh, còn ở Tây Á và châu Phi lại có xu thế tiếp tục giảm Theo UNCTAD, FDI năm 2010 đổ vào Xingapo, Hồng Kông, Trung Quốc, Indonexia, Malayxia và Việt Nam tăng mạnh (Trung Quốc đạt 101 tỉ USD); cộng đồng những nước đang chuyển đổi ở Đông Nam Âu và các quốc gia độc lập cũng đạt mức tăng trưởng khích lệ với tổng FDI đạt trên 71 tỉ USD (UNCTAD 2011).
Mặc dù FDI hồi phục song mức độ đạt được chưa cao, tổng đầu tư cả năm 2010 còn thấp hơn 25% mức trung bình trước khủng hoảng và thấp hơn 40% so với năm đỉnh điểm 2007. Tổng hợp yếu tố thuận lợi tạo niềm tin kinh doanh cho các nhà đầu tư. Hội nghị Liên hợp quốc về hợp tác phát triển, UNCTAD dự báo, với mức tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011-2012 đạt chừng 3%, dòng vốn FDI năm 2011 sẽ lên 1.300 tỉ USD và chừng 1.500 tỉ USD trong năm 2012 (UNCTAD 7/2010).
Do quá trình tái cấu trúc quy mô lớn ngày một gia tăng, hoạt động M&A dễ trở thành phương tiện tiếp thu nhanh công nghệ mới và xu thế này sẽ còn tiếp tục tăng trong tương lai. Những năm khủng hoảng tài chính, nhiều công ty đa quốc gia của nền kinh tế đang phát triển đã tận dụng thời cơ mua được nhiều tài sản hạ giá để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, cơ hội mở rộng giao dịch M&A cũng được tận dụng đặc biệt là trong công nghiệp ô tô và hóa chất. Với xu thế này, tài sản và những nguồn vốn liên quan đã làm chuyển dịch dòng vốn FDI và thị trường đang nổi ngày càng thu hút được nhiều nhà đầu tư.
Bên cạnh yếu tố thị trường và chi phí lao động, tăng trưởng kinh tế và nguồn nhân lực có kỹ năng đã giúp thị trường đang nổi ngày càng trở nên hấp dẫn. Nhìn chung, FDI không chỉ hướng vào những ngành thâm dụng lao động, có giá trị gia tăng thấp mà đã chuyển hướng sang hoạt động đổi mới sáng tạo và thâm dụng công nghệ. Theo tổ chức Triển vọng và Đầu tư toàn cầu (WIPS) thuộc UNCTAD, cho dù EU và các nước Bắc Mỹ vẫn nằm trong 3 khu vực thu hút lớn FDI, song do lợi ích hầu như không thay đổi, nhiều công ty đa quốc gia lại hướng vào những nền kinh tế đang nổi, đặc biệt là ở Đông, Nam và Đông Nam Á. Theo đó, trong 15 nước có sức hấp dẫn FDI hàng đầu, Trung quốc vẫn có vị trí thứ nhất, Ấn Độ lên hàng thứ 3 trên cả Braxin, Nga, Đức ,Oxtralia; Indonexia thứ 9 trên Canada; Việt Nam ở hàng 11 vượt qua Mehico, Ba Lan và Pháp (UNCTAD 2010)
Nguồn vốn đầu tư gián tiếp (FII)
Dòng vốn nóng từ nước ngoài ồ ạt chảy vào những nền kinh tế mới nổi đã kéo theo lạm phát và bong bóng tài sản, gây mất ổn định kinh tế vĩ mô. Tại những thị trường này, Chính phủ nhiều nước đã phải thực hiện biện pháp hạn chế phát triển nóng và xu hướng này được dự báo sẽ còn tiếp tục.ở những nước có nhịp độ tăng trưởng quá cao. Một xu hướng mới nổi vào đầu năm 2011 là nhà đầu tư rút tiền khỏi quỹ đầu tư ở một số nước để mua cổ phiếu ở những nước phát triển hơn, hoặc mua vào bán ra vàng nhằm tránh rủi ro chính trị hoặc thiếu ổn định kinh tế vĩ mô.
Cùng với hiện tượng rút vốn, leo thang trong khủng hoảng nợ công tại khu vực đồng Euro đã làm tăng lợi tức rủi ro ở các thị trường mới nổi; xu hướng này sẽ còn tiếp tục diễn ra, đặc biệt ở những nền kinh tế giữ được đà tăng trưởng cao, kinh tế vĩ mô ổn định và nợ công giảm thấp.Theo nhiều phân tích, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, chênh lệch lãi suất lớn cùng với mở cửa, đã làm cho thị trường mới nổi ngày càng hấp dẫn hơn đối với những nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài.
Tư liệu thống kê năm 2010 của các tổ chức đầu tư toàn cầu còn cho thấy, việc phân bổ tài sản trên thế giới đã theo chiều hướng chuyển từ những nước phát triển sang thị trường mới nổi. Trong vòng 9 tháng đầu năm 2010, giới đầu tư đã rút trên 80 tỉ USD khỏi thị trường chứng khoán phương Tây để đổ vào thị trường chứng khoán của những nền kinh tế mới nổi. Còn về trái phiếu, các nhà đầu tư cũng đã mua trên 40 tỉ USD trái phiếu trên thị trường của những nền kinh tế này.
Khủng hoảng nợ công châu Âu làm sụt giảm giá trị trái phiếu ở một số quốc gia, ngân hàng và nhiều tổ chức tài chính quốc tế đã tìm cách nắm giữ lượng lớn trái phiếu chính phủ. Mặc dù Ngân hàng châu Âu ECB đã can thiệp vào thị trường trái phiếu, song từ tháng 11 năm 2010, nhiều tổ chức tài chính Trung Quốc đã thực hiện mua bán trái phiếu chính phủ của những nước gặp khủng hoảng ở châu Âu.
Từ làn sóng đầu tư chuyển hướng, nhìn chung, chỉ số thị trường chứng khoán những nền kinh tế mới nổi đã tăng mạnh hơn so với Mỹ và nhiều thị trường khác. 6 tháng đầu năm 2010, chỉ số MSCI trên thị trường mới nổi đã cao gấp gần 2 lần chỉ số này tại nước Mỹ (ước tính trên 16,8% và 9,9%). Thực tế diễn ra làm tăng giá trị đồng tiền của những nền kinh tế mới nổi, tiềm ẩn bất lợi cho hoạt động xuất khẩu, buộc Chính phủ nhiều nước phải tìm cách can thiệp nhằm giữ cho giá trị đồng tiền nội tệ không tăng.
Dòng vốn FII chảy mạnh vào thị trường những nền kinh tế mới nổi có thể dẫn đến bong bóng tài sản. Nguồn vốn đổ vào thị trường chứng khoán cùng với trái phiếu gia tăng làm tính thanh khoản trở nên quá lớn, cơ hội đầu tư thêm hấp dẫn lại chứa đựng nguy cơ bão giá tài sản. Ngoài hiệu ứng này, gói lới lỏng định lượng lần 2 (QE2) của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ FED lại kích thích mạnh nhu cầu lợi suất cao, khiến bong bóng tài sản có nguy cơ tăng mạnh hơn tại thị trương những nền kinh tế mới nổi.
Gần đây, dòng vốn có dấu hiệu đảo chiều, đầu năm 2011, một số nhà đầu tư đã trở lại thị trường những nền kinh tế phát triển. Do tài sản được định giá thấp và triển vọng cải thiện nền kinh tế, trong thời gian ngắn các nhà đầu tư đã ồ ạt rút trên 13 tỉ USD khỏi thị trường chứng khoán mới nổi để mua cổ phần vốn hóa lớn tại Mỹ, Nhật Bản và EU (NCEIF 2011). Xu hướng này cũng diễn ra đồng thời với việc Chính phủ của nhiều nền kinh tế, đặc biệt là nhóm BRIC, đi tìm giải pháp quyết liệt chống lạm phát và hạ nhiệt đà tăng trưởng quá cao.
Động thái dòng vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA
Khủng hoảng tài chính toàn cầu ảnh hưởng bất lợi đến nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức từ khu vực phát triển. Tuy nhiên, theo tổ chức Hợp tác và Phát triển (OECD), Hội đồng Hỗ trợ Phát triển của OECD (DAC) trong năm 2010 đã đưa mức tài trợ lên trên 126 tỉ USD (tăng trên 6 tỉ USD so với 2009). Đây là một nỗ lực lớn để tăng nguồn ODA trong thời gian ngắn mà không phụ thuộc vào mức tăng của những khoản viện trợ xóa nợ. Đáng chú ý là, hầu hết các quốc gia tài trợ duy trì được cam kết thực hiện; số ít nước thuộc cộng đồng châu Âu (Đức, Pháp, Áo, Bồ Đào Nha...) có sự trì hoãn. Tuy nhiên, động thái chung của dòng vốn ODA toàn cầu trong 10 năm qua đều đã phát triển theo hướng gia tăng đều đạt cao hơn năm trước từ 19% đến 25%. Năm 2011 có nhiều khó khăn kinh tế, đặc biệt nợ công và thâm hụt ngân sách của những nước tài trợ chính song Chính phủ những nước tài trợ đều thể hiện quyết tâm thực hiện mục tiêu cam kết hướng tới đạt tỉ trọng tài trợ ODA trên thu nhập quốc dân năm 2015 ở mức 0,7% (gấp hơn 2 lần mức của năm 2010).
Và xu thế về nguồn kiều hối
Sau suy giảm mạnh của năm 2009 (giảm 5,5%), dòng kiều hối chính thức đổ vào những nước đang phát triển đã phục hồi nhanh trong năm 2010, ước tính đạt trên 325 tỉ USD (cao hơn 6% năm 2009). Với tăng trưởng kinh tế toàn cầu 3%/năm, dòng kiều hối đổ về các nước đang phát triển được dự báo năm 2011 tăng khoảng 6,2% và chừng 8,1% vào năm 2012(NCEIF 2011).
Từ động thái hồi phục kinh tế có sự khác biệt ở từng khu vực, các nhà phân tích cho rằng, dòng chu chuyển kiều hối toàn cầu vẫn phải đối phó với 3 rủi ro lớn, đó là sự hồi phục chưa vững chắc của những nước nhập khẩu lao động Bắc Âu. Những thay đổi tỉ giá hối đoái, giá cả hàng hóa có những rủi ro khó lường và sau cùng là Chính phủ nhiều nước phát triển có thể áp dụng biện pháp hạn chế nhập cư nhằm đối phó với trình trạng thất nghiệp ở trong nước.
Trong xu thế toàn cầu, việc cắt giảm ngân sách ở một số nước nhập khẩu lao động có thể dẫn đến hạn chế tổng cầu và tăng trưởng, làm gia tăng tỉ lệ thất nghiệp, giảm thu nhập kiều hối của dân di cư. Cùng với đồng đô la yếu đi làm tăng giá trị của các dòng kiều hối từ châu Âu tính theo USD, nhưng cũng có thể gia tăng giá của tài sản và hàng hóa tính theo USD tại các nước nhận kiều hối. Mặt khác, từ hệ lụy của các chính sách bảo hộ nhằm hạn chế sự dịch chuyển của các dòng hàng hóa và lao động giữa các quốc gia, có thể dẫn đến những khả năng trì hoãn quá trình điều chỉnh và kéo dài thêm thời gian hồi phục của nền kinh tế và dòng vốn toàn cầu./.
Dòng vốn toàn cầu, động thái và những xu thế chủ yếu
Khủng hoảng tài chính khiến kinh tế thế giới có những diễn biến phức tạp, bất ổn định và hạn chế đầu tư cũng chứa đựng rủi ro dẫn đến khả năng phục hối mỏng manh. Phân tích thực trạng dịch chuyển các