Sản xuất công nghiệp tăng không đều ở ba khu vực
Để góp phần đạt tốc độ tăng trưởng GDP của cả nước năm 2011 đề ra từ 7 - 7,5%, ngành Công Thương phấn đấu đạt giá trị sản xuất công nghiệp 912 nghìn tỷ đồng, tăng 14,8% so với thực hiện năm 2010, trong đó: khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 7,5%; khu vực ngoài nhà nước tăng 15,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,2%. Giá trị gia tăng toàn ngành công nghiệp tăng 7,1 - 8% so với thực hiện năm 2010 (công nghiệp và xây dựng tăng 7,5 - 8,2%).

Dự kiến chỉ tiêu sản xuất các sản phẩm công nghiệp chủ yếu:
+ Điện sản xuất và mua ngoài: sản lượng đạt 107,4 tỷ kWh, tăng 17,3% so với năm 2010 (107,4 tỷ kWh tăng17,3%)
+ Điện thương phẩm: 98,6 tỷ kWh, tăng 15,1%
+ Than sạch: 44 triệu tấn,bằng 100%
+ Dầu thô khai thác : 15 triệu tấn, tăng 0,9%
+ Khí đốt (khí thiên nhiên): 8,2 tỷ m3, bằng 88,7%
+ Thép các loại: 6,7 triệu tấn, tăng 4,2%
+ Động cơ điện: 200 nghìn cái, tăng 7,0%
+ Động cơ diesel: 320 nghìn cái, tăng 7,7%
+ Tivi: 3,0 triệu chiếc, tăng 22,1%
+ Phân đạm urê: 931,5 nghìn tấn, bằng 94,1%
+ Phân lân các loại: 1,44 triệu tấn, tăng 0,3%
+ Phân NPK các loại: 1,8 triệu tấn, tăng 3,9%
+ Quần áo may sẵn: 2.200 triệu sản phẩm, tăng 20,0%
+ Giầy dép các loại: 600 triệu đôi, tăng 17,2% (Trong đó: Giầy thể thao là 370 triệu đôi, tăng 16,0%)
+ Giấy bìa các loại: 2,0 triệu tấn, tăng 8,2%
+ Thuốc lá bao các loại: 5,0 tỷ bao, tăng 0,2%
+ Bia các loại: 2.800 triệu lít, tăng 17,7%
+ Sữa bột: 60 nghìn tấn, tăng 12,6%
+ Dầu thực vật (tinh luyện): 530 nghìn tấn,tăng 0,6%.

Mục tiêu chỉ số giá tiêu dùng thấp hơn 8%
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội năm 2010 ước đạt 1.561.613 tỷ đồng, tăng 24,5% so với năm 2009, nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì vẫn tăng khoảng 14%, tiếp tục khẳng định tầm quan trọng và tiềm năng của thị trường nội địa. 

Năm 2011, nền kinh tế tiếp tục đà tăng trưởng nhưng vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, trong đó, đáng chú ý là lạm phát có nguy cơ tăng cao trở lại bởi tác động của các yếu tố như: giá hàng hóa thế giới tiếp tục tăng, thiên tai tác động, tăng lương tối thiểu theo lộ trình (từ 730.000 đ/tháng lên 830.000 đ/tháng). Đáng chú ý là việc tiếp tục thực hiện lộ trình giá thị trường đối với một số nhóm hàng đầu vào quan trọng (than, điện, nước), tiếp đến là các hàng rào phi thuế sẽ tiếp tục dỡ bỏ theo cam kết gia nhập WTO...

Dự kiến tổng mức lưu chuyển bán lẻ hàng hoá và dịch vụ xã hội 2011 tăng khoảng 25% so với năm 2010, hàng hóa, dịch vụ phong phú, đa dạng, đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Giá cả hàng hoá tuy có xu hướng nhích lên do kinh tế thế giới phục hồi nhưng sẽ dần ổn định. Chỉ số tăng giá tiêu dùng <8%.

Cung - cầu một số mặt hàng trọng yếu năm 2011

1. Lương thực: Năm 2010, mặc dù thời tiết có nhiều diễn biến phức tạp nhưng sản xuất lúa gạo năm 2010 đã đạt kết quả tốt, ước sản lượng lúa năm 2010 đạt 39,8 triệu tấn, tăng 0,9 triệu tấn so với năm 2009, tạo nguồn cung dồi dào cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Dự kiến cung cầu năm 2011:
- Nhu cầu tiêu dùng trong nước khoảng 28 triệu tấn thóc.
- Sản xuất lúa gạo dự kiến đạt khoảng 39,14 triệu tấn thóc, giảm 0,66 triệu tấn so với năm 2010.
- Dự kiến sẽ còn khoảng 11,14 triệu tấn lúa hàng hoá phục vụ xuất khẩu và dự trữ, trong đó xuất khẩu gạo dự kiến khoảng 5,6 triệu tấn.

2. Thực phẩm: Năm 2010, do thiên tai, dịch bệnh, cạnh tranh từ nước ngoài làm giảm sản lượng một số gia súc, gia cầm...

Dự kiến cung cầu năm 2011:
- Nhu cầu: Tổng khối lượng thịt các loại tiêu dùng trong nước khoảng 2,9 triệu tấn thịt xẻ quy đổi, tăng khoảng 6,5-7,0% so với năm 2010.
- Sản xuất: Tổng sản lượng thịt hơi các loại năm 2011 khoảng 4,2-4,3 triệu tấn, tăng 6,5-7% so với năm 2010. Trong đó, thịt lợn hơi tăng khoảng 6-6,5% so với năm 2010; thịt gia cầm tăng 14-15%, thịt bò tăng 12-13%, thịt trâu tăng 3-4% và các loại thịt khác tăng 8-9%.
- Nhập khẩu: 90-100 ngàn tấn thịt các loại.

3. Muối: Sản lượng muối cả nước tính đến 20/12/2010 ước đạt 1.186.527 tấn (tăng 48% so với cùng kỳ năm 2009), trong đó: muối sản xuất thủ công đạt 931.931 tấn; muối sản xuất công nghiệp đạt 254.596 tấn. Hiện nay lượng muối tồn trong diêm dân và một số doanh nghiệp sản xuất khoảng 263.489 tấn (chủ yếu là muối đen). 

Dự kiến cung cầu năm 2011:
- Nhu cầu: 1,350 triệu tấn
- Sản xuất: 1,000 triệu tấn
- Nhập khẩu: 182 ngàn tấn

4. Đường trắng: Năm 2010, với nhu cầu tiêu dùng đường bình quân khoảng 110.000 tấn/tháng, cộng với lượng nhập khẩu bảo đảm nhu cầu. Giá đường nước sau một thời gian tăng nhanh, sang tháng 12 đã có dấu hiệu hạ nhiệt khi hàng loạt nhà máy đường trong nước bắt đầu đi vào sản xuất, giá đường thời gian tới sẽ giảm. 

Dự kiến cung cầu năm 2011:
- Nhu cầu: 1,3 – 1,4 triệu tấn
- Sản xuất: 1,0 triệu tấn
- Nhập khẩu: 250 ngàn tấn

5. Phân bón: Năm 2010, nhu cầu phân bón cao trong vụ Đông Xuân (2009-2010) và giá phân bón thế giới tăng nên các tháng đầu năm giá phân bón trong nước tăng nhẹ (urê ở mức 6.300-7.000 đ/kg); Từ tháng 3, giá phân bón bắt đầu giảm và tương đối ổn định ở mức thấp (urê ở mức 6.000-6.700 đ/kg) cho đến cuối tháng 7/2010. 

Kịch bản giá phân bón năm 2011 không biến động lớn, dự kiến cung cầu phân bón năm 2011: Tổng cộng nhu cầu 8.500.000T, sản xuất: 5.950.000T, nhập khẩu: 2.550.000 T, cụ thể:
- Urê: nhu cầu 1.800.000 T, sản xuất được 990.000 T, nhập khẩu 810.000 T
- SA: nhu cầu 600.000 T, nhập khẩu 600.000T
- Kali: nhu cầu 700.000 T, nhập khẩu 700.000T
- DAP: nhu cầu 700.000 T, sản xuất 260.000 T, nhập khẩu 440.000T
- NPK : nhu cầu 3.100 .000 T; sản xuất 3.100.000 T
- Lân chế biến: nhu cầu 1.600.000 T, sản xuất 1.600.000 T

6. Thức ăn chăn nuôi: Năm 2010, theo Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam giá thức ăn hỗn hợp một số mặt hàng thức ăn chăn nuôi sản xuất trong nước phổ biến ở mức 8.600 – 9.400 đ/kg (đối với thức ăn cho lợn) và 8.500 – 9.700 đ/kg (đối với thức ăn cho gà). Nguyên nhân tăng giá chủ yếu là do giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi thế giới tăng và ta còn phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu (khô dầu đậu tương nhập khẩu 100%). Năm 2010: Sản xuất thức ăn công nghiệp trong nước ước đạt 11 triệu tấn; Thức ăn tự cung, tự cấp khoảng 2,7 triệu tấn; Nhập khẩu ước trên 6 triệu tấn. Nguồn cung (sản xuất trong nước và nhập khẩu) sản xuất trong nước đã đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước. 

Dự kiến cung cầu năm 2011: Dự kiến giá trị sản xuất chăn nuôi tăng bình quân từ 7,5 - 8% so với năm 2010 (kế hoạch phát triển ngành chăn nuôi năm 2011), cung cầu thức ăn chăn nuôi trong nước như sau:
- Nhu cầu thức ăn tinh khoảng 20.636 nghìn tấn.
- Sản xuất thức ăn chăn nuôi là 15.200 tấn (sản xuất thức ăn công nghiệp là 12.001 nghìn tấn, thức ăn tự cung tự cấp là 3.199 tấn).
- Nhập khẩu khoảng 7.757 nghìn tấn.

7. Thép xây dựng: Năm 2010, sản xuất và tiêu thụ thép tăng trưởng mạnh so với năm 2009 (15,4 - 28,2%), sản xuất thép trung bình đạt 440.000 tấn/tháng, lượng thép tiêu thụ trung bình đạt 397.000 tấn/tháng. Giá thép diễn biến phức tạp, không theo quy luật. Giá bán được điều chỉnh tăng nhiều lần trong năm (10 lần) do chi phí sản xuất tăng (giá nguyên liệu nhập khẩu, giá điện, giá xăng, lãi suất ngân hàng, tỉ giá ngoại tệ...). Giá thép bán lẻ cả năm dao động trong khoảng 12,3 -16,2 triệu/tấn, tăng 14,9-31% so với năm 2009. 

Dự kiến cung cầu năm 2011: nhu cầu thép xây dựng trong nước có thể đạt trên 6,5 triệu tấn, tăng khoảng 10% so với năm 2010. Dự kiến sản lượng sản xuất trong nước đạt khoảng 5,8 triệu tấn. Nhập khẩu thép xây dựng có thể lên tới khoảng gần 1 triệu tấn do tình trạng dư thừa trên thị trường thế giới cũng như việc cắt giảm thuế suất nhập khẩu theo lộ trình cam kết WTO và theo Hiệp định thương mại tự do khu vực mà Việt Nam tham gia; Xuất khẩu khoảng 200 nghìn tấn. Như vậy trong năm 2011, lượng cung thép xây dựng khoảng 6,6 triệu tấn, đáp ứng đủ nhu cầu trong nước.

8. Xi măng: Năm 2010, sản xuất và tiêu thụ xi măng tiếp tục tăng trưởng mạnh, bình quân đạt 4,1-4,2 triệu tấn/tháng, tăng khoảng 10% so với 2009. Nhìn chung trong năm 2010, giá bán xi măng tương đối ổn định. Nhập khẩu Clinker: Theo Tổng cục Hải quan, tính đến ngày 15/12/2010, lượng clinker nhập khẩu đạt 2,127 triệu tấn, trị giá 80,7 triệu USD, giá clinker nhập khẩu bình quân đạt 37,9 USD/tấn. 

Dự kiến cung cầu năm 2011, theo Bộ xây dựng nhu cầu tiêu thụ khoảng 54,5-56,0 triệu tấn, tăng khoảng 6,7-9,0% so với năm 2010. Theo Hiệp hội xi măng Việt Nam, đến năm 2011 sẽ có thêm 10 nhà máy được đưa vào hoạt động, nâng sản lượng sản xuất dự kiến tăng khoảng 15 triệu tấn, ước cả năm 2011 đạt 65,8 triệu tấn. Như vậy, năng lực sản xuất xi măng trong nước sẽ đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ, đồng thời cũng có một lượng xi măng, clinker được các cơ sở sản xuất trực tiếp xuất khẩu, dự kiến từ 1-1,5 triệu tấn. Nhập khẩu clinker năm 2011 ước khoảng từ 0,5-1 triệu tấn.

9. Giấy: Năm 2010, tiêu dùng giấy đạt 2,295 triệu tấn giấy các loại, tăng 3,6% so với năm 2009 (tiêu dùng giấy in báo chỉ đạt 42,7%, giấy in & viết bằng 98,7%, giấy tissue bằng 72,7% và giấy làm bao bì bằng 111,5%). Năm 2010: Sản xuất: 1.585.000 tấn, tăng khoảng 35% so với năm 2009; Nhập khẩu giấy các loại: trên 1 triệu tấn; Xuất khẩu: 125.000 tấn.

Dự kiến cung cầu năm 2011: Ngày 09/12/2010 Công ty cổ phần giấy Bãi Bằng khánh thành nhà máy giấy in báo cao cấp, công suất thiết kế 50.000 tấn/năm, sản xuất 100% từ giấy tái chế qua khử mực, nâng năng lực sản xuất của toàn ngành năm 2011.
- Nhu cầu tiêu dùng dự kiến: đạt 2.526.600 tấn tăng 10% so với năm 2010.
- Sản xuất: 1.498.000 tấn, tăng 15,3% so với năm 2010.
- Nhập khẩu đạt 1.128.100 tấn, tăng 1,9% so với năm 2010.
- Xuất khẩu đạt 99.500 tấn, giảm 10% so với năm 2010.
- Nhập khẩu bột đạt 115.000 tấn, tăng 15% so với năm 2010 (Dự kiến dây chuyền bột của Công ty CP Giấy An Hòa, đến cuối 2011 mới được đưa vào sản xuất).

10. Xăng dầu:
Năm 2010: Nhập khẩu: Ước đạt hơn 9 triệu tấn xăng dầu các loại (đạt 77% kế hoạch năm 2010), năm 2010 lượng xăng dầu nhập khẩu để tiêu thụ nội địa khoảng 8,98 tấn. Sản xuất: Ước đạt khoảng 5,8 triệu tấn xăng dầu các loại (đạt 106,51% kế hoạch năm 2010). Tồn kho đến hết ngày 31/11/2010 đạt trên 1 triệu tấn xăng dầu các loại. 

Dự kiến cung cầu năm 2011: Sản xuất: 5,7 triệu tấn, nhập khẩu: 11,2 triệu tấn, trong đó tái xuất khoảng 2 triệu tấn, đáp ứng đủ nhu cầu khoảng 16,9 triệu tấn.

11. Than: Năm 2010, sản xuất 43 triệu tấn than sạch, đạt kế hoạch năm; Xuất khẩu: 19,2 triệu tấn, tăng 1,2% so với kế hoạch; Tồn kho: 5,5 triệu tấn; Tiêu thụ trong nước: khoảng 25 triệu tấn. Các hộ tiêu thụ lớn trong năm 2010: Điện tiêu thụ 9.000.000 T (tăng 37,49) ; Xi măng 5.750.000 T (tăng 25%); Đạm 520.000T; Giấy 130.000 T; hộ khác 9.000.000T. Về giá bán: Từ ngày 01/3/ 2010 điều chỉnh giá bán cho hộ điện bằng 55 - 60% giá bán cho các hộ khác trong nước và bằng 36 - 40% giá than xuất khẩu cùng chất lượng. Kể từ thời điểm đó đến nay, giá than không có sự điều chỉnh. 

Dự kiến cung cầu năm 2011: Sản xuất ước khoảng 44 triệu tấn, xuất khẩu: 16,5 triệu tấn, đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ trong nước khoảng 27,5 triệu tấn. Dự kiến lượng than bán cho các hộ tiêu thụ lớn năm 2011: Điện tiêu thụ 11.000.000 T (tăng 27,91%); Đạm 970.000 T (tăng 173%) ; Giấy 130.000T; Xi măng 6.800.000T (tăng 15,25%); hộ khác 9.800.000 T. Về giá bán, dự kiến giá than cho các hộ xi măng, giấy, phân bón có điều chỉnh tăng theo cơ chế thị trường theo nội dung Thông báo số 244/TB-VPCP của Văn phòng Chính phủ ngày 11/8/2009.

12. Thuốc chữa bệnh: Năm 2010, trị giá tiền thuốc sử dụng đạt 1.938 triệu USD, tăng 14,26%; tiền thuốc bình quân đầu người đạt: 22,53 USD/người/năm, tăng 13,96% so với năm 2009. Về nguồn cung: Thuốc sản xuất trong nước ước đạt 950 triệu USD, tăng 14,29%; Trị giá nhập khẩu ước đạt: 1.258 triệu USD, tăng 7,45% (trong đó: thuốc thành phẩm nhập khẩu đạt: 1.038 triệu USD, tăng 14,71%; nguyên liệu nhập khẩu đạt: 220 triệu USD, giảm 17,27%); ước tính xuất khẩu đạt: 50 triệu USD, tăng 25,12% so với năm 2009. 

Dự kiến cung cầu năm 2011: Thị trường dược phẩm cả nước tiếp tục ổn định, đáp ứng nhu cầu phòng và chữa bệnh; Giá thuốc cung ứng cho các cơ sở khám chữa bệnh công lập gần như không biến động (theo giá đã đấu thầu); Giá một số thuốc sản xuất trong nước và một số mặt hàng thuốc thành phẩm nhập khẩu bán lẻ trên thị trường có thể có điều chỉnh nhẹ do tỉ giá ngoại tệ thay đổi.


Giảm nhập siêu vẫn là thách thức lớn, do tỷ lệ nhập khẩu nguyên vật liệu gia công sản xuất hàng xuất khẩu còn lớn, nhất là các ngành như dệt - may, giầy dép, linh kiện điện tử hoặc để sử dụng trong nước như nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc, phôi thép, hóa chất vẫn còn ở mức cao, theo dự báo, giá của những nguyên, nhiên vật liệu này trên thế giới năm 2011 vẫn tăng vì vậy sẽ tác động trực tiếp đến việc gia tăng kim ngạch nhập khẩu. Ngoài các yếu tố trên, còn có nguyên nhân do hạn chế trong năng lực sản xuất, kinh doanh hàng tiêu dùng (năng suất thấp, chủng loại chưa đa dạng, chất lượng chưa cao, chưa kiểm soát được chi phí để có giá thành hạ) cũng sẽ làm gia tăng nhập khẩu hàng tiêu dùng xa xỉ phẩm.

Một số giải pháp đột phá
- Áp dụng các biện pháp để tăng mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu chặt chẽ hơn, nhất là hàng tiêu dùng cao cấp đắt tiền, gắn với đẩy mạnh sản xuất trong nước thay thế nhập khẩu để giảm nhập siêu.

- Chủ động thực hiện lộ trình điều chỉnh giá cả một số hàng hóa, dịch vụ nhà nước quản lý như điện, than theo cơ chế thị trường, theo sự chỉ đạo của Chính phủ.

- Thực hiện các giải pháp chuyển dịch cơ cấu và tái cấu trúc nền kinh tế, theo hướng giảm dần đầu tư từ ngân sách, đẩy mạnh xã hội hóa nguồn vốn.

- Đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án nguồn điện theo Quy hoạch; thực hiện kiên quyết và có hiệu quả việc tiết kiệm điện; tăng cường hoạt động giám sát điện năng ở các địa phương.

- Điều chỉnh cơ cấu ngành công nghiệp nhằm nâng cao giá trị gia tăng, triển khai tích cực các cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển công nghiệp hỗ trợ, phát triển các ngành sản xuất thay thế nhập khẩu. Đổi mới cơ cấu và chính sách thu hút FDI, khuyến khích vào những ngành, khu vực sản xuất có hàm lượng công nghệ cao, ít tiêu tốn năng lượng và ảnh hưởng đến môi trường, có khả năng đẩy mạnh xuất khẩu.

- Tiếp tục rà soát, điều chỉnh, xây dựng mới các quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực thuộc chức năng quản lý, trước hết là sớm hoàn thành Quy hoạch điện VII, điều chỉnh Quy hoạch ngành thép, hoàn thành quy hoạch bôxit...
- Các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, đi đôi với hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường công tác tự kiểm tra. Các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước phải tập trung nguồn lực cho lĩnh vực kinh doanh chính và thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc.
- Tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của sản xuất, quản lý; gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực; phát triển hình thức đào tạo theo hợp đồng.
- Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, hiệu quả.
- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính và phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Đẩy mạnh hoạt động cung cấp trực tuyến các dịch vụ công.

Một số giải pháp bình ổn thị trường, kiềm chế lạm phát
- Bảo đảm giữ vững cân đối cung cầu các mặt hàng trọng yếu của nền kinh tế quốc dân trong mọi tình huống; phối hợp với các Bộ, ngành chỉ đạo đẩy mạnh phát triển sản xuất trong nước để giảm thiểu các tác động bất lợi của thị trường thế giới.
- Theo dõi sát diễn biến thị trường trong và ngoài nước, các yếu tố ảnh hưởng tới giá cả hàng hóa trong nước để kịp thời chỉ đạo và kiến nghị Chính phủ các giải pháp điều tiết cung cầu và bình ổn thị trường.
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống phân phối trên thị trường bán lẻ, đặc biệt là hệ thống phân phối các mặt hàng thiết yếu, quan trọng (lương thực, xăng dầu, thép, phân bón, xi măng) và hệ thống các chợ, hợp tác xã, cửa hàng và hộ bán lẻ ở địa phương.
- Hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn, vận động toàn dân thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam".
- Tăng cường kiểm tra giám sát về chất lượng, xuất xứ, nguồn gốc hàng hoá, chống hàng giả, hàng kém chất lượng, kiểm tra giá cả các mặt hàng thiết yếu hiện vẫn chưa kiểm soát được.