Chỉ sau 5 năm hoạt động, Tổng công ty đã phát triển gấp 3 lần: GTSX công nghiệp từ 774 tỷ đồng lên 2. 454 tỷ đồng; Doanh thu 1.048 tỷ đồng lên 3.339 tỷ đồng; Nộp ngân sách 458 tỷ đồng lên 1.444 tỷ đồng; Từ 5 đơn vị phát triển lên thành 13 đơn vị; Từ phục vụ thị trường trong nước đã xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, CHLB Nga... được khách hàng ưa dùng. Đạt được thành tựu lớn lao đó, chúng ta không quên công lao đóng góp của các thế hệ đi trước đã đặt nền móng cho sự phát triển của Tổng công ty nói chung và Bia Hà Nội nói riêng.
Nhớ lại cách đây 50 năm, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ ký kết, thực dân Pháp rút khỏi miền Bắc nước ta. Nhà máy Bia Hà Nội được Pháp xây dựng từ năm 1896, có tên là Nhà máy Bia Hommel. Trước khi chủ nhà máy rút khỏi Hà Nội đã tháo dỡ máy móc mang đi, cái nào không mang đi được thì phá hỏng. Đầu năm 1957, Nhà nước ta chủ trương khôi phục lại Nhà máy Bia Hommol và đổi tên thành Nhà máy Bia Hà Nội. Thế hệ CBCNV đầu tiên tiếp quản và khôi phục Nhà máy Bia Hà Nội đã vượt qua rất nhiều khó khăn, thử thách, thi đua lao động sáng tạo để sớm khôi phục lại Nhà máy. Được sự giúp đỡ của chuyên gia Tiệp Khắc, cùng với sự nỗ lực của cán bộ công nhân Nhà máy, ngày 15/8/1958 mẻ bia Trúc Bạch đầu tiên đã ra đời phục vụ nhân dân Hà Nội - đánh dấu sự trở lại của Nhà máy bia vang danh một thời. Công suất lúc đầu Nhà máy đạt 28 triệu lít/năm, tương đương công suất trước lúc khôi phục Nhà máy. Sự kiện này đánh dấu bước phát triển mới của ngành công nghiệp đồ uống non trẻ ra đời trên miền Bắc XHCN. Ngày 15/8 đã trở thành ngày truyền thống của Bia Hà Nội suốt 50 năm qua.
Bước sang giai đoạn đất nước có chiến tranh (1965 - 1975), CBCNVC Nhà máy Bia Hà Nội “vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa lo chi viện sức người sức của cho chiến trường miền Nam”. Nhà máy hoạt động trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn, chiến tranh ác liệt, nhưng chưa lúc nào phải ngừng sản xuất. Ngay trong đợt đánh phá cao điểm 12 ngµy đêm cuối năm 1972, Nhà máy cũng chỉ ngừng sản xuất đúng 1 ngày. Tự vệ Nhà máy đưa súng lên nóc nhà phải hợp với bộ đội cao xạ bắn máy bay Mỹ, tháo gỡ bom nổ chậm, cứu người, cứu hàng, bảo vệ an toàn cho Nhà máy trong suốt thời gian bị đánh phá.
Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), một số cán bộ của Nhà máy Bia Hà Nội được điều vào miền Nam công tác, làm nòng cốt cho Nhà máy Bia Sài Gòn và một số cơ sở sản xuất đồ uống các tỉnh phía Nam. Trải qua 10 năm của thời kỳ sản xuất theo kế hoạch hóa (1976-1986), Nhà máy sản xuất trong điều kiện thiếu thốn trăm bề, nền kinh tế lạm phát cao, chiến tranh biên giới xảy ra, sự bao vây cấm vận từ bên ngoài, đã gây cho chúng ta không ít khó khăn. Trong khó khăn chung đó đã nảy sinh nhu cầu bia giải khát cho đời sống nhân dân, đồng thời phục vụ các công trường xây dựng, các nhà máy, hầm lò, trường học... được xây dựng nhiều sau chiến tranh. Vì vậy, Nhà máy cần được đầu tư nâng công suất để đáp ứng nhu cầu sản xuất bia trong thời kỳ xây dựng đất nước.
Đầu tư mở rộng lần thứ nhất: Được sự giúp đỡ của CHDC Đức, Nhà máy triển khai đầu tư mở rộng lần thứ nhất, từ 1978-1981, bao gồm: Chế tạo nồi hơi và lắp đặt nhà nấu bia mới, bổ sung thiết bị lên men, hệ thống làm lạnh, hệ thống nồi hơi theo công nghệ của CHDC Đức. Kết quả mở rộng đợt 1 là đã đưa công suất từ 28,5 triệu lít/năm (thiết bị và công nghệ của Pháp) lên 45 triệu lít/năm (1981). Ngoài sản lượng bia hàng năm đạt theo kế hoạch Nhà nước giao, mỗi năm Nhà máy còn sản xuất được 5-6 triệu lít nước ngọt, 50-55 tấn CO2.
Đầu tư mở rộng lần thứ hai: Bước sang giai đoạn đất nước mở cửa (1986-2006) đổi mới theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), Nhà máy Bia Hà Nội đã có những bước phát triển cơ bản và vượt bậc để phát triển bền vững trong cơ chế thị trường định hướng XHCN. Công cuộc đổi mới đã làm thay đổi nếp nghĩ, cách làm của mỗi cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức Bia Hà Nội. Kinh tế thị trường mở cửa cho các cơ sở sản xuất đồ uống (trong đó mặt hàng bia là chủ đạo) phát triển ồ ạt với nhiều hãng bia danh tiếng nước ngoài đã có mặt tại Việt Nam: Tiger, Carlberg, Heineken, San Miguel, Anchor, BGI, Foster, Zokok... Kế đến là tỉnh nào cũng đầu tư sản xuất bia, xuống tới cấp huyện thì hầu như huyện nào cũng đầu tư sản xuất “bia mini”. Trước cơ hội ra của thị trường bia và cũng là thách thức, cạnh tranh quyết liệt, tập thể lãnh đạo và công nhân viên chức Nhà máy đã xác định: Thị trường đồ uống cạnh tranh gay gắt. Muốn đứng vững và phát rtiển trong kinh tế thị trường phải coi trọng chữ tín với khách hàng. Muốn có chữ tín thì chất lượng sản phẩm phải tốt, muốn có chất lượng sản phẩm tốt thì phải có máy móc thiết bị và công nghệ sản xuất hiện đại. Muốn máy móc thiết bị công nghệ hiện đại thì phải có vốn đầu tư. Đó là những yếu tố “cần” và “đủ” để cho Bia Hà Nội phát triển. Thế nhưng, thực tế của Nhà máy Bia Hà Nội là đã qua hơn 100 năm hoạt động, cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị đã cũ kỹ lạc hậu... Những hạn chế đó đã làm ảnh hưởng tới công suất và chất lượng sản phẩm. Đảng uỷ và Ban giám đốc Nhà máy đã đặt ra mục tiêu là phải đầu tư thiết bị công nghệ hiện đại theo tiến độ từng giai đoạn, nhưng phải giữ nguyên công nghệ Bia Hà Nội cổ truyền. Muốn đạt mục tiêu đó phải tiến hành đồng thời 2 nhiệm vụ song song: Một là, duy trì sản xuất kinh doanh theo kế hoạch để đạt mức độ tăng trưởng 15-20%/năm. Hai là, đầu tư xây dựng mới trên cùng một mặt bằng đang sản xuất kinh doanh, nhưng không làm trở ngại đến nhau. Nghĩa là vừa đầu tư xây dựng mới, vừa đảm bảo sản xuất kinh doanh trên cùng một mặt bằng đang sản xuất kinh doanh tại 183 Hoàng Hoa Thám – Ba Đình – Hà Nội. Bằng nguồn vốn tự có và chủ động vay vốn ngân hàng, Nhà máy Bia Hà Nội đã mạnh dạn đầu tư lần thứ hai với 3 đợt kế tiếp nhau đã làm nên bước nhảy vọt cả về sản lượng lẫn chất lượng, tạo nên đa dạng hóa sản phẩm của Bia Hà Nội.
Đợt 1: Từ 1989-1991, tiếp tục chọn CHDC Đức làm đối tác đầu tư. Với vốn tự có 30 tỷ đồng và vốn vay 20 tỷ đồng, Nhà máy đã mua mới và lắp đặt thay thế các máy móc thiết bị đã quá cũ kỹ từ thời Pháp để lại, nâng công suất từ 45 triệu lít/năm lên 50 triệu lít/năm (tăng 5 triệu lít/năm). Đặc biệt đợt mở rộng này là tạo ra sản phẩm mới đầu tiên đó là bia lon Hà Nội. Năm 1993, Nhà máy Bia Hà Nội đổi thành Công ty Bia Hà Nội, tên giao dịch HABECO (Ha Noi Beer Company). Từ đây, HABECO trở thành thương hiệu và cũng là niềm tự hào của nhiều thế hệ CBCNV Bia Hà Nội.
Đợt 2: từ 1992-1995, Công ty tiếp tục đầu tư 150 tỷ đồng vào các hạng mục công trình cần thiết như: Cải tạo và mở rộng các nhà xưởng, nhà kho, đường giao thông nội bộ, mua mới máy móc thiết bị để thay thế cho những máy móc thiết bị đã quá cũ và thiếu đồng bộ. Đợt 2 đã bắt đầu chú trọng đầu tư chiều sâu như hệ thống lên men ngoài trời (unitank), thiết bị lọc bia hiện đại, thiết bị nén, thiết bị thu hồi CO2 mới, thiết bị lạnh..
Đợt 3: Từ 1996 - 2000, Công ty tiếp tục củng cố và đầu tư đợt 3, nâng công suất sản lượng từ 50 triệu lít/năm lên 100 triệu lít/năm. Doanh thu từ 404 tỷ đồng/năm lên 427 tỷ đồng/năm. Nộp ngân sách từ 225 tỷ đồng lên 233 tỷ đồng/năm. Lợi nhuận từ 86 tỷ đồng/năm lên 117 tỷ đồng/ năm. Thu nhập bình quân 1,4 triệu đồng/người/tháng lên 1,65 triệu đồng/người/tháng. Đây cũng là đợt đầu tư cả bề rộng lẫn chiều sâu theo hướng kinh doanh đa dạng hóa sản phẩm bia, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường nội địa và xuất khẩu. Một số dây chuyền chủ yếu như: dây chuyền chiết chai 30.000 chai/giờ; dây chuyền chiết lon 18.000 lon/giờ, dây chuyền chiết keg 240 keg/giờ, nồi nấu bia, tank lên men, lò hơi... được nhập khẩu từ CHLB Đức hiện đại, tiên tiến, đồng bộ, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và môi trường với hệ thống quản lý chất lượng quốc tế ISO 9001-2000, ISO 14001, ISO 22000, Bia Hà Nội đã xuất khẩu sang CHLB Nga, CHLB Đức, Hà Lan, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, được bạn bè đánh giá cao.
Từ tạo đà phát triển của 3 đợt đầu tư, bước vào giai đoạn 5 năm hoạt động trong mô hình Tổng công ty Bia – Rượu – Nước giải khát Hà Nội (2003 – 2008) lãnh đạo Tổng công ty xác định: Thị trường Việt Nam (trong đó có Hà Nội) sản xuất bia vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong đồ uống có cồn (khoảng 89% giá trị và 97% về sản lượng). Lấy mốc năm 2002 trước khi thành lập Tổng công ty, sản lượng bia tăng từ 886 triệu lít lên 1,7 tỷ lít (năm 2006). Dự kiến năm 2010 sẽ là 2,5 tỷ lít. Với 400 cơ sở sản xuất bia trong cả nước thì chỉ có 5 nhà máy có công suất trên 100 triệu lít/năm, trong đó có Bia Hà Nội là đơn vị sản xuất hàng đầu tại Hà Nội và các tỉnh phía Bắc.
Mục tiêu phấn đấu đến năm 2010, toàn Tổng công ty đạt tốc độ tăng trưởng 18%/năm; Sản lượng bia 900 triệu lít bia/năm, trong đó Công ty mẹ là 300 triệu lít/năm (hiện nay mới 100 triệu lít/năm); Giá trị SXCN khoảng 1.900 tỷ đồng; Doanh thu 3.900 tỷ đồng; Nộp ngân sách 1.500 tỷ đồng; Thu nhập bình quân đầu người đạt 7,5 triệu đồng/\người/tháng. Vì vậy, lãnh đạo HABECO cùng tập thể 800 CBCNVC toàn Tổng công ty quyết tâm phấn đấu đạt được mục tiêu đã đề ra. Trước mắt, HABECO đã đầu tư xây dựng Nhà máy Bia Vĩnh Phúc công suất 200 triệu lít/năm, tổng mức đầu tư 2.100 tỷ đồng, đã hoàn thành giai đoạn 1, dự kiến đầu năm 2009 sẽ hoàn thành giai đoạn 2 để đi vào sản xuất. Với phương châm lấy Bia Hà Nội làm chủ lực và với uy tín thương hiệu đã có bề dày 50 năm, HABECO chủ trương phát triển sản phẩm bia theo hình thức đầu tư vào các công ty con như: Công ty Bia Hà Nội – Quảng Bình công suất 25 triệu lít/năm; Công ty Bia Hà Nội – Hải Dương công suất 50 triệu lít/năm. Ngoài ra, HABECO mạnh dạn đầu tư vào các công ty sản xuất bia ở các tỉnh với hình thức liên kết nhằm đa dạng hoá sản phẩm và mở rộng thị trường như: Dự án Bia Hà Nội – Vũng Tầu (50 triệu lít); Dự án Bia Hà Nội – Quảng Trị (50 triệu lít); Dự án Bia Hà Nội – Hải Phòng (50 triệu lít); Dự án Bia Hà Nội – Hồng Hà (30 triệu lít)...
Với những đóng góp của nhiều thế hệ CBCNVC suốt 50 năm qua cho sự nghiệp cách mạng và cho đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã trao tặng nhiều phần thưởng cao quý cho HABECO: Huân chương Lao động hạng Nhì (1960 -1962); Huân chương Chiến công hạng Ba (1997); Huân chương Đôc lập hạng Ba (2006); nhiều năm được Chính phủ và Bộ Công nghiệp tặng cờ luân lưu; được Tổng liên đoàn Lao động VN tặng cờ thi đua; Đảng bộ nhiều năm liên tục được công nhận là Đảng bộ trong sạch và vững mạnh; Đoàn thanh niên, đội tự vệ nhiều năm được tặng bằng khen; một số đề tài nghiên cứu khoa học phục vụ cho sản xuất mang lại hiệu quả tốt, được trao giải thưởng sáng tạo toàn quốc. Một ghi nhận đáng trân trọng từ người tiêu dùng là HABECO liên tục được bình chọn vào “Top 100” doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam.
Nhìn lại tròn nửa thế kỷ qua, HABECO đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, thuận lợi cũng nhiều và khó khăn cũng không ít. Nhờ có sự chỉ đạo thường xuyên của Bộ Công nghiệp, sự giúp đỡ của các ban ngành và địa phương, sự nhạy bén nắm bắt kịp thời của lãnh đạo HABECO các thời kỳ cộng với sự đoàn kết cao của tập thể CBCNVC là những yếu tố cơ bản HABECO phát triển vượt bậc và bền vững như ngày hôm nay. Những thành tựu đạt được và những kinh nghiệm đúc kết từ thực tiễn sẽ giúp HABECO vững bước đi lên trong những năm tới, góp phần phát triển ngành công nghiệp đồ uống Việt Nam, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế.