Theo Chương trình hành động nói trên, dưới sự chỉ đạo và giám sát trực tiếp của Uỷ ban Kinh tế Xã hội của Liên Hợp Quốc (UN ECOSOC), các cơ quan chuyên môn của LHQ (Tiểu ban chuyên gia  của LHQ về vận chuyển hàng nguy hiểm và các nguy hại vật lý – UN Subcommitee of experts on Transport of Dangerous Goods-Physical hazards, Tiểu ban chuyên gia của LHQ về GHS – UN Subcommitee on GHS, Tổ chức Lao động quốc tế ILO) và các bên liên quan (OECD, Chính phủ và ngành công nghiệp hóa chất (CNHC) ở các nước có (CNHC) phát triển như Mỹ, EU, Nhật Bản, Canada...) đã làm việc hết sức tích cực trong nhiều năm và đã thực hiện một khối lượng công việc đồ sộ, nhằm đạt được thoả thuận về việc hài hoà các quy định luật pháp và hướng dẫn kỹ thuật hiện hành liên quan đến phân loại và ghi nhãn hoá chất thành một chuẩn mực chung thống nhất. Kết quả là GHS đã được hoàn thành và chính thức thông qua phiên bản đầu tiên vào năm 2003 dưới tên gọi là ”Quyển sách tím” (Purple Book). Cũng từ khi ban hành, tài liệu đã tiếp tục được xem xét, bổ sung, cập nhật và hiệu chỉnh. Phiên bản mới nhất được phát hành vào cuối năm 2006 sẽ cung cấp nhiều thông tin bổ sung quan trọng, đặc biệt về phân loại nguy hại môi trường (có thể tìm thấy theo địa chỉ: www.unece.ora/trans/danger/ publi/ghs).

Đóng góp quan trọng nhất của GHS là, đã đưa ra những tiêu chí thống nhất, qua đó hình thành một chuẩn mực chung trong đánh giá và phân loại hoá chất và hỗn hợp hoá chất. GHS cũng cung cấp những biểu trưng nguy hại và từ cảnh báo thống nhất trong mô tả hoá chất cũng như những hướng dẫn phòng ngừa thống nhất đối với các bên có liên quan, qua đó tạo ra nhận thức chung chuẩn mực, đồng đều toàn cầu về hoá chất. Với đóng góp quan trọng này, GHS đã thực sự mang lại nhiều tác dụng thiết thực, đó là: Tăng cường bảo vệ sức khoẻ và môi trường; thúc đẩy giao lưu thương mại quốc tế về hoá chất; giảm thiểu nhu cầu về tiến hành thử nghiệm và đánh giá; hỗ trợ các nước và các tổ chức quốc tế trong việc đảm bảo quản lý hoá chất một cách chặt chẽ. Chính vì vậy mà GHS được UN ECOSOC, Diễn đàn Liên Chính phủ về An toàn hoá chất (IFCS) và Uỷ ban LHQ về phát triển bền vững (WSSD) khuyến nghị áp dụng tại tất cả các nước vào năm 2008.

2.Tình hình thực hiện GHS

Do ý nghĩa hết sức tích cực của GHS, nên nhìn chung các nước đều thể hiện thiện chí cao trong việc thực hiện GHS. Tuy nhiên, do hoá chất có ảnh hưởng đến nhiều ngành, lĩnh vực (công, nông nghiệp, giao thông vận tải, y tế, thương mại...) và các đối tượng trong xã hội (người sản xuất, người tiêu dùng, các nhà cung cấp, vận tải, lực lượng khắc phục sự cố hoá chất...), do đó vấn đề đặt ra trước tiên đối với mọi quốc gia khi muốn thực hiện GHS là phải xây dựng một cơ cấu quốc gia liên ngành, có sự phối hợp đồng bộ, thống nhất để tiến hành rà soát, trên cơ sở đó bổ sung, điều chỉnh và hài hoà luật pháp cũng như các quy định hiện hành của quốc gia về phân loại và ghi nhãn hoá chất theo yêu cầu của GHS. Vì vậy, trong thực tế việc thực hiện GHS là khác nhau tại các nước và khu vực. Trong số các nước và khu vực ngoài APEC, EU (gồm 25 nước châu Âu) là khu vực đang đi đầu trong việc thực hiện và tuyên bố sẽ áp dụng GHS tại toàn bộ các quốc gia thành viên vào năm 2007, với đơn chất hoá chất và 2009 với hỗn hợp hoá chất. Riêng khối các nền kinh tế APEC trước đây đã có nghị quyết khuyến khích các thành viên trong khu vực áp dụng GHS một cách tự nguyện bắt đầu từ năm 2006. Cho đến nay, mặc dù việc triển khai thực hiện GHS tại khu vực đã đạt được những tiến bộ đáng kể và nhìn chung là nhanh và tích cực hơn so với một số khu vực khác trên thế giới (một số nền kinh tế đã hoặc đang chuẩn bị áp dụng GHS, chẳng hạn như New Zealand đã áp dụng GHS từ đầu năm 2006; Singapore, Đài Loan, Mexico và Nhật Bản cam kết sẽ áp dụng GHS trong năm 2006. Tương tự, Mý, úc, Hồng Kông trong năm 2007). Nhưng nhìn chung, việc thực hiện là không đồng đều và còn nhiều nền kinh tế trong khu vực, trong đó có Nga không có khả năng đáp ứng được thời hạn 2006 đã nêu, chủ yếu do các khó khăn về mặt kỹ thuật. Vì vậy, Hội nghị Bộ trưởng kinh tế APEC tổ chức trong khuôn khổ APEC Việt Nam 2006 vừa qua đã quyết định lùi thời hạn áp dụng GHS tại khu vực vào năm 2008, thời hạn cuối cùng do Liên hợp quốc (UN) đề ra đối với toàn thế giới.

Việt Nam bắt đầu tiếp cận với GHS từ năm 2003 thông qua khuôn khổ hợp tác ASEAN- Nhật Bản về công nghiệp hóa chất mà Bộ Công nghiệp là đầu mối. Trong khuôn khổ hợp tác nói trên, Chính phủ Nhật Bản, thông qua các tổ chức của mình là JICA, JETRO, AOTS, đã cung cấp các hỗ trợ kỹ thuật dưới nhiều hình thức khác nhau (cử chuyên gia vào tập huấn tại Việt Nam, tiếp nhận các cán bộ Việt Nam tham dự các khóa học ngắn hạn tổ chức hàng năm tại Nhật Bản) nhằm nâng cao nhận thức về GHS cho các bên có liên quan của Việt Nam. Từ năm 2005 trở lại đây, các khóa đào tạo mang tính chuyên đề hơn, cụ thể là tập trung xây dựng những kỹ năng cơ bản về phân loại đơn chất và hỗn hợp, lập phiếu an toàn hóa chất, ghi nhãn hóa chất… Bản thân Việt Nam trong thời gian qua cũng đã từng bước thể chế hóa các yêu cầu của GHS vào thực tiễn quản lý hóa chất của mình. Cụ thể, đã đề đưa ra yêu cầu bắt buộc đối với các nhà sản xuất và nhập khẩu hóa chất về cung cấp phiếu an toàn hóa chất tại Nghị định số 68/2004/NĐ-CP ngày 20/05/2004 của Chính phủ về An toàn hóa chất. Việc áp dụng GHS cũng được đề cập tại dự thảo Luật Hóa chất đang đựợc xây dựng và Dự kiến sẽ trình Quốc hội xem xét tại kỳ họp giữa năm 2007 tới. Hy vọng, với việc thông qua Luật Hóa chất, Việt Nam sẽ có đầy đủ các điều kiện cần thiết đảm bảo thực hiện GHS vào năm 2008 như đã cam kết. Tuy nhiên, vào thời điểm này thì việc tăng cường xây dựng năng lực chuẩn bị cho thực hiện GHS vẫn hết sức cần thiết. Vì vậy, Bộ Công nghiệp đã tiếp tục kiến nghị Viện đào tạo và Nghiên cứu quốc tế của Liên hợp quốc (UNITAR), Ban Thư ký APEC cùng các nền kinh tế thành viên APEC, đặc biệt là Nhật Bản tiếp tục các hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam, đặc biệt chú trọng xây dựng các điều kiện về luật pháp quy định, thể chế và bổ túc sâu các kỹ năng thực thi GHS.