Làng Cồn Cát thuộc xã Diễn Tháp, huyện Diễn Châu (Nghệ An), gồm có 4 xóm: Yên Thịnh, Phú Thịnh, Ngọc Châu và Cồn Ngọc. Các xóm ngày nay đã thành “thôn”, vì dân đông. Ruộng đất của làng Cồn Cát không có nhiều, đất cát pha, chủ yếu là cát. Một số cánh đồng có thể trồng lúa, còn phần lớn là đồng màu. Các bậc Thành Hoàng đã có công tạo lập làng trên cồn cát lớn và đặt tên nôm là làng Cồn Cát.

Nghề đúc đồng chỉ có ở hai xóm Yên Thịnh và Phú Thịnh. Số gia đình làm nghề đúc đồng chiếm khoảng 50% tổng số hộ dân. Trong số các gia đình làm nghề đúc đồng, có gia đình vẫn kết hợp làm ruộng. Chỉ có rất ít hộ là chuyên đúc đồng.

Những người thợ đúc đồng ở đây có tổ chức thành phường, gọi là phường thợ đúc. Phường thợ đúc tế Tổ sư vào ngày 15 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Lễ tế được tổ chức luân phiên từng gia đình, năm nay tế ở gia đình này, sang năm tế ở gia đình khác, không cố định ở một nơi nào. Các cụ làm nghề đúc đồng ở đây cho biết, lễ tế khấn Tổ sư là ông Khổng Lồ (biệt hiệu của quốc sư Dương Không Lộ thời Lý), tương truyền là người đã có công lớn truyền dạy nghề đúc đồng cho dân ta.

Với nguyên liệu là đồng nát và than lim, muốn đúc thành đồng người thợ phải tạo và sử dụng các loại khuôn, lò nấu, lò nung, bễ thổi lửa, đe, búa, kìm cặp v.v...

Lò nấu đồng có nhiều loại với kích cỡ khác nhau, tùy theo số lượng đồng cần dùng nhiều hay ít. Lò nấu đồng loại 10 kg có đường kính rộng 30cm, cao 20 cm, đường hơi vào rộng 4-5 cm, đất nhồi trấu làm vỏ dày 4 cm. Giữa lòng rỗng dùng để bỏ đồng nát và than.

Nồi đúc đồng cũng có nhiều loại khác nhau, tùy thuộc số lượng đồng cần dùng nhiều hay ít. Loại trung bình có đường kính rộng 30 cm, vỏ dày bằng đất nhồi trấu 4 cm, có cửa cho đồng chảy vào khuôn, rộng khoảng 5cm.

Nồi đúc bao giờ cũng được đặt dưới lò đúc. Khi đồng nóng chảy, thì tự chảy xuống nồi đúc. Người thợ bê hoặc khênh nồi, rót đồng vào khuôn. Trước khi đặt nồi đúc vào lò nấu đồng, người ta đổ một lớp tro mỏng vào đáy nồi, để cho đồng khỏi dính.

Khi đã chuẩn bị đầy đủ dụng cụ, thợ nấu cho đồng nát và than vào lò, sắp xếp cho điều hòa, dùng mồi nhen lửa và cho bễ thổi hoạt động. Than bén lửa, hồng lên và cháy đều. Bễ thổi tiếp tục hoạt động, không được ngừng nghỉ. Lúc nào nhiệt độ trong lò lên 500-7000C, đồng sẽ chảy lỏng. Đồng chảy xuống dưới nồi đúc đặt dưới lò. Lúc nào đồng trong lò chảy hết xuống nồi, người thợ bê nồi ra khỏi vị trí, gạt lớp tàn tro đọng phía trên, rồi từ từ rót đồng vào khuôn, tùy theo số lượng đã định sẵn.

Thành phẩm của nghề đúc đồng có rất nhiều loại. Tựu chung có thể xếp vào bốn loại chính: đồ dùng trong gia đình, đồ tế khí, đồ mỹ nghệ và đồ phụ tùng máy móc công nghiệp, như: nồi, xoong, sanh, thau, chảo, hông xôi, cồng chiêng, thanh la, não bạt, lư hương, đèn sáp, đèn đất, cò, hạc, rùa... (trang trí) và phụ tùng máy móc.

Các loại thành phẩm này, được đem đi các nơi xa, gần để bán trong huyện, trong tỉnh, tỉnh bạn và bán sang tận nước Lào (nhiều nhất là chõ đồ xôi). Phương tiện vận chuyển là gánh bộ, xe cút kít, ôtô, tầu hỏa, thuyền bè. Một số khác do khách đặt hàng hoặc khách buôn ở xa đến lấy hàng. Số này cũng có khá nhiều, vì khách bao giờ cũng muốn lấy hàng có chất lượng cao.

Đây là một nghề thủ công, nên việc học và truyền dạy nghề xưa nay đòi hỏi kỹ thuật và sự khéo tay. Chính sự khéo tay này là “bí quyết” của nghề nghiệp. Gia đình ông Nguyễn Đình Miên có 5 anh em trai đều làm nghề đúc đồng, nhưng chỉ có ông Miên đúc được thanh la, còn 4 người em không làm được. Vì thanh la là một loại nhạc khí, phải có tiếng kêu thật, không phải ai cũng làm được. Kỹ thuật đúc thanh la phải khéo, độ dày phải đều, tròn. Nếu không, tiếng kêu sẽ kém và hàng bị ế, cho dù có đem chỉnh sửa kỹ đến đâu cũng không đảm bảo chất lượng.

Hiện nay, ở làng Cồn Cát, chỉ còn lại một ít gia đình đang tiếp tục làm nghề, nhiều nhà khác đã ngừng hoạt động. Nguyên nhân là các hàng kim loại khác, nhất là đồ nhôm lấn át đồ đồng. Đồng nát bây giờ rất hiếm, nên giá mua rất cao, sản xuất ra có khi bị lỗ vốn. Do vậy, đồ đồng sản xuất chủ yếu là đồ nhạc khí và đồ tế khí. Còn đồ nấu ăn và đồ đựng thì hầu như không còn ai mua sắm đồ đồng, trừ các loại mâm đồng.

Trước đây, nghề đúc đồng ở Cồn Cát đã sản sinh ra những nghệ nhân nổi tiếng, như gia đình ông Nguyễn Đình Miên ở thôn Phú Thịnh là một gia đình mấy đời có truyền thống về nghề đúc đồng. Thân sinh ông Miên là một thợ đúc nổi tiếng. Bản thân ông Miên được công nhận là nghệ nhân đúc đồng, đã được UBND tỉnh cấp bằng khen. Và hiện nay, gia đình ông Miên và một số rất ít gia đình khác là còn tiếp tục làm nghề đúc đồng.

Tuy trước kia làng Cồn Cát có tổ chức thành phường hội để giúp nhau trong sản xuất và buôn bán, nhưng chủ yếu là sản xuất riêng lẻ trong từng gia đình, nên văn nghệ dân gian phản ánh nghề đúc đồng không phát triển như những ngành nghề khác.

Có câu: Ai lên Cồn Cát đúc đồng

Hỏi thăm cô Tú lấy chồng hay chưa?

Hay nhiều gia đình làm nghề đúc đồng ở đây thường treo câu đối:

Nhà nông dân hiền nhân xuất nhập,

Cửa công nghệ quý khách vãng lai.

Tuy lời lẽ có vẻ mới và chất phác, nhưng cũng phản ánh được phần nào tính chất của một nghề thủ công truyền thống ở một làng nghề nổi tiếng lâu đời đang lụi dần./.