[eMagazine] Việt Nam trước cơ hội lớn từ tái định hình hội nhập và dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu

Trải qua hơn ba thập kỷ hội nhập sâu rộng, Việt Nam đã trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở cao trong khu vực, tham gia ngày càng sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu và vươn lên nhóm các quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, bối cảnh quốc tế đang thay đổi rất nhanh: chuỗi cung ứng toàn cầu tái cấu trúc, thương mại toàn cầu tăng chậm lại, yêu cầu xanh hóa và chuyển đổi số ngày càng khắt khe, các xung đột địa chính trị liên tiếp diễn ra. Trong bối cảnh đó, hội nhập quốc tế không còn đơn thuần là mở cửa thị trường mà gắn chặt với câu chuyện bảo đảm an ninh chuỗi cung ứng, tăng cường năng lực tự chủ và khả năng chống chịu của mỗi nền kinh tế.

Theo TS. Trịnh Quốc Vinh - Ủy viên Hội đồng khoa học, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương, xét về bản chất, hội nhập kinh tế quốc tế vẫn là quá trình các quốc gia tham gia sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu thông qua thương mại, đầu tư, hợp tác khoa học công nghệ, nhằm thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững. Điểm thay đổi căn bản của giai đoạn hiện nay nằm ở cách thức và mục tiêu hội nhập.

Nếu trước đây hội nhập chủ yếu tập trung vào mở rộng thị trường, tăng thương mại và tối ưu hóa chi phí, tồn kho, thì hiện nay hội nhập ngày càng gắn chặt với an ninh chuỗi cung ứng, nâng cao khả năng tự chủ và khả năng chống chịu của nền kinh tế. Các quốc gia đang tái định hình hội nhập theo hướng chọn lọc và bền vững hơn, với các yêu cầu khắt khe về môi trường, phát thải, lao động và trách nhiệm xã hội.
Đây là “sự thay đổi luật chơi” mà doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt. Tư duy tối ưu hóa chi phí thuần túy đang dần được thay thế bằng tư duy quản trị rủi ro tổng thể, với việc đa dạng hóa nguồn cung, rút ngắn chuỗi cung ứng, tăng mức độ minh bạch và kiểm soát.


Số liệu cho thấy, từ năm 1990 đến 2025, GDP toàn cầu tăng khoảng 4,8 lần, trong khi thương mại toàn cầu chỉ tăng khoảng 3,6 lần. GDP tăng nhanh hơn thương mại phản ánh xu hướng thương mại không còn bùng nổ như giai đoạn toàn cầu hóa trước đây, mà có dấu hiệu chậm lại trong bối cảnh các nước tăng cường bảo hộ, áp dụng nhiều loại hàng rào mới và chú trọng an ninh kinh tế.
Việt Nam, trong quá trình hội nhập đó, đã đạt được những thành quả đáng kể. Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 470 tỷ USD, đưa Việt Nam vào nhóm 20 quốc gia có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất thế giới. Song song với đó, thực tế là giá trị gia tăng nội địa còn thấp, chỉ khoảng 20 - 25%, phần lớn vẫn là gia công, lắp ráp. Đây là hạn chế lớn nếu Việt Nam muốn tiến lên các nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị, nơi đòi hỏi làm chủ công nghệ, thiết kế, thương hiệu và hệ thống phân phối.

TS. Trịnh Quốc Vinh cho rằng mô hình tăng trưởng dựa nhiều vào FDI, gia công, lao động giá rẻ, dù đã giúp hàng trăm nghìn người thoát nghèo, nhưng đang bộc lộ những giới hạn rõ rệt trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu dịch chuyển, tiêu chuẩn ngày càng cao và áp lực giảm phát thải gia tăng.
Thật vậy, một loạt thách thức nổi lên trong bối cảnh hiện tại. Trước hết là cạnh tranh chiến lược giữa các nền kinh tế lớn, kéo theo phân mảnh chuỗi cung ứng và xu hướng hình thành các “khối” hội nhập có tiêu chuẩn cao. Điều này khiến các nền kinh tế như Việt Nam phải thích ứng với nhiều bộ quy tắc khác nhau, từ các FTA thế hệ mới cho tới các quy định về an ninh, công nghệ và dữ liệu.

Thách thức thứ hai đến từ sự gia tăng của các hàng rào thương mại và phi thuế quan. Nhiều ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đang đối diện các vụ việc phòng vệ thương mại, yêu cầu khắt khe về truy xuất nguồn gốc, về môi trường, về lao động. Các yêu cầu về giảm phát thải, trung hòa carbon, những ràng buộc liên quan đến phát triển bền vững đang trở thành điều kiện bắt buộc. Nếu doanh nghiệp không chuyển đổi xanh, không đáp ứng được tiêu chuẩn mới, nguy cơ bị loại khỏi chuỗi cung ứng là rất rõ. Việc châu Âu triển khai Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) là một ví dụ điển hình cho xu hướng này.
Một thách thức khác là vấn đề năng suất và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Năng suất lao động của Việt Nam hiện ở mức thấp so với các nước trong khu vực và còn cách khá xa các nước phát triển. Khoảng cách này phản ánh chất lượng nguồn nhân lực, trình độ công nghệ và năng lực quản trị của doanh nghiệp còn hạn chế, khiến khả năng tham gia sâu vào các khâu có giá trị gia tăng cao của chuỗi cung ứng còn nhiều rào cản.

Theo các chuyên gia, xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu hiện nay được quyết định bởi ba yếu tố nổi bật.
Xu hướng thứ nhất là đa dạng hóa địa điểm sản xuất. Các tập đoàn đa quốc gia đang có xu hướng phân tán rủi ro, giảm phụ thuộc vào một thị trường hay một cơ sở sản xuất duy nhất. Nhiều doanh nghiệp tìm kiếm thêm các điểm đến mới để bảo đảm an toàn chuỗi cung ứng. Việt Nam được đánh giá là một lựa chọn hấp dẫn, nhưng đồng thời cũng phải cạnh tranh trực tiếp với những nền kinh tế lớn khác như Ấn Độ hay Mexico.


Xu hướng thứ hai là số hóa chuỗi cung ứng. Việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và các nền tảng công nghệ giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực dự báo, quản trị tồn kho, tối ưu hóa mạng lưới cung ứng và minh bạch hóa toàn bộ quá trình sản xuất, phân phối. Điều này vừa tạo cơ hội, vừa đặt ra yêu cầu trách nhiệm đối với doanh nghiệp Việt Nam trong việc đẩy mạnh chuyển đổi số, kết nối dữ liệu và ứng dụng công nghệ.
Xu hướng thứ ba là phát triển bền vững. Các tiêu chuẩn về môi trường, phát thải, sử dụng năng lượng, trách nhiệm xã hội được lồng ghép ngày càng sâu vào các thỏa thuận thương mại và chuỗi cung ứng. Đặc biệt, cam kết trung hòa carbon của Việt Nam đến năm 2050 là mục tiêu quan trọng cần đạt được, các chiến lược ngành mà Bộ Công Thương xây dựng gần đây đều coi phát triển bền vững là nguyên tắc xuyên suốt.

Trong bối cảnh dịch chuyển chuỗi cung ứng, Việt Nam đứng trước một cơ hội đáng kể. Dòng vốn đầu tư nước ngoài đang có xu hướng chuyển dịch vào các ngành công nghệ cao, điện tử, tự động hóa, thay vì chỉ tập trung vào các lĩnh vực thâm dụng lao động. Đây là cơ hội để Việt Nam từng bước tham gia sâu hơn vào các tầng nấc giá trị có hàm lượng công nghệ cao.

Việt Nam cũng là quốc gia đã ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó đang thực thi 17 FTA với 65 đối tác, phủ rộng khắp các châu lục và bao gồm hầu hết các quốc gia, nền kinh tế lớn trên thế giới. Mạng lưới FTA này mang lại lợi thế quan trọng trong thu hút đầu tư và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Tuy nhiên, còn những điểm nghẽn trong nội tại. Chi phí logistics dù đã có nhiều cải thiện nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao trong GDP. Hạ tầng logistics, đặc biệt là kết nối giữa cảng biển, đường bộ và đường sắt, còn thiếu đồng bộ.

Bên cạnh đó, hệ sinh thái doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ còn yếu, thiếu các doanh nghiệp dẫn dắt. Quy mô doanh nghiệp nhỏ, thiếu vốn, năng lực công nghệ hạn chế khiến quá trình tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn lớn còn gặp nhiều khó khăn.

Bám sát Nghị quyết 59-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, Bộ Công Thương đang xây dựng Chương trình vươn ra thị trường toàn cầu - Go Global với các trọng tâm:
Về tư duy và kinh tế, việc đổi mới tư duy hội nhập là yêu cầu tiên quyết. Việt Nam cần chuyển từ trạng thái tham gia thụ động sang chủ động kiến tạo chuỗi cung ứng. Điều đó đòi hỏi xây dựng đội ngũ doanh nghiệp dẫn dắt, doanh nghiệp vệ tinh, mỗi nhóm đóng vai trò khác nhau trong chuỗi giá trị. Doanh nghiệp phải gắn hội nhập với chuyển đổi số, nâng cao quản trị rủi ro và liên tục đổi mới.

Về chính trị và công nghệ, Bộ Công Thương đang triển khai chiến lược phát triển hạ tầng dữ liệu, kết nối cơ sở dữ liệu ngành Công Thương với các bộ, ngành và cộng đồng doanh nghiệp. Đồng thời, cần thúc đẩy làm chủ công nghệ, đầu tư vào tự động hóa và R&D. Đáng chú ý, Bộ đang đề xuất thí điểm các quỹ hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, mua bán - sáp nhập (M&A) để sở hữu công nghệ phục vụ công tác sản xuất trong nước.
Về văn hóa và thực thi, bài toán lớn là xây dựng văn hóa tuân thủ tiêu chuẩn, văn hóa đổi mới và chủ động hội nhập. Song song với cải cách thể chế, Bộ Công Thương cũng đang nghiên cứu cơ chế tín dụng xuất khẩu nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, mở rộng thị trường và nâng cấp công nghệ.

Bối cảnh mới của hội nhập quốc tế đặt Việt Nam trước một “thời điểm quyết định” khi mà các điều kiện khách quan và chủ quan đang hội tụ, mở ra cơ hội hiếm có để tái định vị vị trí của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu. Tuy nhiên, cơ hội này không kéo dài mãi, và nếu không nắm bắt kịp thời, Việt Nam có thể bỏ lỡ nhịp chuyển dịch quan trọng nhất của chuỗi cung ứng thế giới trong nhiều thập kỷ.
Làn sóng tái cấu trúc chuỗi cung ứng sau đại dịch, dưới tác động của căng thẳng thương mại và yêu cầu phát triển bền vững, khiến các tập đoàn đa quốc gia phải chú trọng hơn đến yếu tố ổn định, an toàn và khả năng đáp ứng tiêu chuẩn của các quốc gia tiếp nhận đầu tư. Việt Nam đang nổi lên như một lựa chọn đầy tiềm năng, nhưng để chuyển từ “điểm đến hấp dẫn” sang “mắt xích quan trọng” thì doanh nghiệp Việt Nam phải hội đủ năng lực công nghệ, năng lực quản trị và năng lực đáp ứng các chuẩn mực quốc tế.
Khả năng “làm chủ” từ công nghệ, quy trình, dữ liệu đến tuân thủ tiêu chuẩn môi trường chính là yếu tố quyết định để Việt Nam tiến lên những tầng nấc giá trị cao hơn. Trong các lĩnh vực như điện tử, công nghệ cao hay bán dẫn, cơ hội đang mở ra, nhưng việc tận dụng được hay không phụ thuộc vào việc nâng cấp nội lực của doanh nghiệp trong nước.


Bộ Công Thương đang tập trung vào việc hoàn thiện thể chế, triển khai hiệu quả các chiến lược ngành, hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực, đẩy mạnh xây dựng hạ tầng số, và thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Về phía doanh nghiệp, cần chủ động hơn trong chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và điều chỉnh mô hình sản xuất theo hướng đáp ứng tiêu chuẩn cao hơn của thị trường quốc tế, tích cực tìm kiếm cơ hội liên kết và tham gia sâu hơn vào các chuỗi cung ứng mới hình thành.
Bộ Công Thương cam kết tiếp tục đồng hành cùng doanh nghiệp thông qua việc hoàn thiện thể chế và các phương tiện hỗ trợ, cụ thể sắp tới trong năm 2026 thì chương trình hỗ trợ gần nhất liên quan đến vấn đề này là Chương trình Go Global.Tuy nhiên, chính sách chỉ là bệ phóng, để cất cánh, chúng ta cần những giải pháp thực thi cụ thể tại từng doanh nghiệp.
TS. TRỊNH QUỐC VINH
Ủy viên Hội đồng khoa học, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương
