Trong sự nghiệp quân sự của Thượng tướng Trần Quang Khải, trận ông chỉ huy đánh tan quân Nguyên ở Chương Dương và Thăng Long, khôi phục kinh thành vào cuối tháng 5/1285 được sử sách ca ngợi “Là chiến công to nhất lúc bấy giờ”.
Trần Quang Khải vừa là vị tướng tài ba, là nhà ngoại giao, đồng thời ông cũng là nhà thơ. Trong văn học nước ta, Trần Quang Khải là một nhà thơ có vị trí không nhỏ. Thơ ông sáng tác có tập Lạc đạo, (nay đã thất truyền, chỉ còn lưu lại được một số bài). Nổi tiếng hơn cả vẫn là bài Tụng giá hoàn kinh.
Phiên âm chứ Hán:
Đoạt sóc Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san
Dịch thơ:
Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái Bình nên gắng sức
Non nước vẫn nghìn thu.
Những vần thơ Trần Quang Khải để lại là những ánh lưu hình của một cuộc đời lớn, vị tướng tài ba, nhà chính trị kiệt xuất và là một nhà thơ lớn trong lịch sử dân tộc.
Trần Nguyên Đán (Canh Thân, 1320-1390), ông là cháu bốn đời của Trần Quang Khải. Khoảng cuối đời Trần, xã hội nước ta rối loạn, ông có công giúp Trần Nghệ Tông diệt Dương Nhật Lễ, khôi phục cơ nghiệp nhà Trần, do đó được phong chức Tư đồ phụ chính. Sau vua quá tin dùng Hồ Quý Ly, ông can ngăn không được bèn từ chức về ở ẩn trên núi Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương). Tác phẩm của ông có Băng hồ ngọc hán, trong đó có một số bài đã phản ánh được sự suy vi của xã hội cuối đời Trần.
Phân âm chữ Hán:
Dạ quy chu trung tác
Vạn quốc dân sinh phí đỉnh ngư
Sóc Yên, đông Biện dĩ khâu khư
Quy chu vị ổn giang hồ mộng
Phân thủ ngư đăng chiếu cổ thư.
Dịch thơ:
Dân bị lầm than mấy triệu thừa
Yên tan, Biện nát đã bao giờ
Giang hồ chiếc gối chưa yên giấc
Mượn lửa thuyền chài đọc sách xưa.
Nguyễn Trãi (Canh Thân, 1380-1442), ông tên tự là ức Trai, là con Nguyễn Phi Khanh, cháu ngoại Đại tư đồ Trần Nguyên Đán. Quê gốc làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, nay là Chí Linh, Hải Dương. Sau gia đình đến lập nghiệp ở làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc, (nay là Thường Tín) Hà Tây. Nguyễn Trãi sinh ra ở thành Thăng Long.
Năm đầu đời Hồ (1400), Nguyễn Trãi đậu Thái học sinh (Tiến sỹ) đồng khoa với Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên... Năm ông 20 tuổi, Hồ Quý Ly cử ông giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng. Năm 1406, Minh Thành Tổ sai Trương Phụ sang xâm lược nước ta. Nhà Hồ đem quân ra chống cự nhưng không nổi, cha con Hồ Quý Ly cùng một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh bị bắt đưa về Trung Quốc. Nguyễn Trãi đã theo cha lên tận cửa Nam Quan. Khi quay về đến Thăng Long, ông bị giặc Minh bắt và giam lỏng. Sau một thời gian bị giảm lỏng, ông đã vượt ngục về Thanh Hóa theo Lê Lợi. Ông đã trao cho Lê Lợi Bình Ngô sách, là bản chiến lược đánh đuổi quân Minh.
Trong thời gian cùng Lê Lợi kháng chiến chống ngoại xâm, với ngòi bút sắc bén, ông đã phối hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh ngoại giao, góp phần đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi nước ta, giành lại độc lập cho Tổ quốc.
Sau khi đuổi được quân Minh, ông thảo bài Bình Ngô đại cáo tuyên bố cho toàn dân cuộc kháng chiến chống ngoại xâm đã thắng lơị hoàn toàn. Bình Ngô đại cáo là bản Thiên cổ hùng văn. Đó là một thiên anh hùng ca bất hủ của dân tộc. Khi Lê Lợi mất, ông soạn bài văn bia Vĩnh Lăng bi ký ghi lại quá trình kháng chiến chống quân Minh và ca ngợi công đức của vua Lê Thái Tổ. Sau khi Lê Lợi mất, vì bị gièm pha nhiều, ông xin về ẩn sĩ ở Côn Sơn (Hải Dương). Năm 1434, vua Lê Thái Tông mời vời ông ra giúp nước. Năm 1442, vua Lê Thái Tông mất, ông bị nghi và khép vào tội giết vua, nên bị án tru di. Đến năm 1464 vua Thánh Tông thấu nỗi oan của ông đã minh oan cho ông và phục hồi cho ông tước Tân trù bá. Đến đời vua Tương Dực truy tặng tước Tế văn hầu.
Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử nước Việt Nam, là vị anh hùng dân tộc, là nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa kiệt xuất. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao sáng như Lê Thánh Tông từng ca ngợi “ức Trai tâm thượng quang khuê tảo” (Lòng ức Trai sáng tựa sao Khuê). Năm 1980, tổ chức văn hóa UNESCO của Liên hợp quốc đã long trọng tổ chức kỷ niệm 600 năm ngày sinh của ông với tư cách là danh nhân văn hóa thế giới.
Tác phẩm của ông có: Giao tự đại lễ, Thạch khánh đồ, Dư địa chỉ, Ngọc đường di cảo, Quân trung từ mệnh tập, ức Trai thi tập và đặc biệt là bài Đại cáo bình Ngô, được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc. Ngoài ra ông còn viết một số văn bia, chiếu, biểu... xin dẫn bài “Mộ Xuân tức sự”.
Phiên âm chữ Hán:
Nhàn trung tận nhật bế thư trai
Môn ngoại toàn vô tục khách lai
Đỗ vũ thanh trung xuân hướng lão
Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai.
Dịch thơ:
Cuối xuân tức sự
Ngày nhàn khép chặt cửa buồng văn
Khách tục không ai bén tới gần
Tiếng cuốc gào xuân, xuân sắp hết
Hoa xoan mới nở đượm mưa nhuần.
Đào Duy Từ (Nhâm Thân, 1572-1634), ông quê làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, nay thuộc huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Ông là người thông minh, học rộng, biết nhiều, nhưng vì xuất thân từ một gia đình làm nghề hát xướng (Cha là Đào Tá Hán, làm quản giáp trong nghề ca hát, rồi cai quản đội nữ nhạc của Triều định dưới thời Lê Anh Tông) nên không được đi thi. Phẫn chí vì luật lệ thi cử khắt khe, vì có tài mà không được trọng dụng, Đào Duy Từ bèn rời bỏ quê nhà ở Đàng ngoài, trốn vào Đàng trong để tìm đường tiến thân với chúa Nguyễn. Vào Đàng trong, ban đầu ông làm kẻ chăn trâu cho nhà khám lý Trần Đức Hòa. Trần Đức Hòa biết Đào không phải là người thường bèn tìm cách tiến cử lên chúa Sãi. Chúa Sãi gặp Đào rất vừa ý bèn trao ngay trọng chức và phong cho tước Hầu, cử coi việc quân cơ, tham mưu chính sự. Trong 8 năm được trọng dụng, ông đã giúp họ Nguyễn xây dựng và củng cố một vương triều mới nên được xem là công thần khai quốc, khi mất được thời ở Thái miếu và truy tặng Quốc công.
Về trước tác, Đào Duy Từ có sách Hổ trướng khu cơ là một tác phẩm về nghệ thuật quân sự được viết bằng chữ Hán. Ông còn là người có công phát triển nghề hát bội, là người khởi thảo tuồng Sơn Hậu và được suy tôn là ông tổ của bộ môn nghệ thuật tuồng. Đồng thời ông cũng là tác giả của nhiều bài hát và bài vè lưu truyền trong dân gian.
Về văn thơ, ông là nhà thơ viết nhiều nhưng hiện nay chỉ còn lại hai tác phẩm quốc âm, đều được viết theo lối lục bát: Ngọa long cương vãn và Tư Dung vãn (đều được viết trước năm 1627, năm Đào Duy Từ chính thức ra cộng tác với chúa Nguyễn). Ngọa long cương vãn là tác phẩm nói về Khổng Minh đời Tam Quốc khi còn ở chốn lều tranh. Đào Duy Từ tự ví mình với Khổng Minh Gia Cát đang đợi thời, chờ gặp chúa giỏi để giúp đời, giúp nước. Tư Dung vãn là tác phẩm ca ngợi cảnh đẹp của cửa biển Tư Dung, tự hào với non nước xinh đẹp và Đàng trong thịnh vượng. Đây là những bài lục bát đầu tiên trong văn học nước ta. Lời văn khá điêu luyện, vần điệu thanh thoát.
Đào Duy Từ xứng đáng là nhà văn hóa toàn diện ở Việt Nam đầu thế kỷ XVII.
Một số danh nhân văn hóa sinh năm THân
Trần Quang Khải (Mậu Thân, 1248-1294), quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, Nam Định. Ông là con trai thứ ba của Trần Thái Tông, được phong tước Chiêu Minh đại vương. Năm 1274 ông được giao chức Tướ