TÓM TẮT:
Trong phạm vi bài viết, tác giả đề cập đến các quy định về phòng, chống tham nhũng đối với các chủ thể bắt buộc phải áp dụng các biện pháp phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước. Theo quy định của Điều 80 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, doanh nghiệp và các tổ chức ngoài nhà nước đó là: các công ty đại chúng, tổ chức tín dụng và tổ chức xã hội do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập hoặc phê duyệt điều lệ có huy động các khoản đóng góp của nhân dân để hoạt động từ thiện (sau đây gọi tắt là công ty đại chúng, tổ chức tín dụng và tổ chức xã hội). Qua đánh giá khái quát những hạn chế, vướng mắc về quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng đối với các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước, tác giả đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực này.
Từ khóa: doanh nghiệp ngoài nhà nước, tổ chức khu vực ngoài nhà nước, tham nhũng, phòng, chống tham nhũng.
1. Đặt vấn đề
Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 và Nghị định số 59/2019/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã tạo ra hành lang pháp lý cho công tác phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp và các tổ chức ngoài nhà nước. Tuy nhiên, quy định pháp luật hiện hành còn có một số điểm cần giải quyết thấu đáo, triệt để và thống nhất hơn nữa để việc thực hiện trên thực tiễn đạt hiệu quả cao hơn.
Nhận thấy sự quan trọng và cần thiết đó, tác giả phân tích, đánh giá khái quát những hạn chế, vướng mắc về quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng đối với các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước, đồng thời đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức này.
2. Quy định pháp luật về công tác phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước - Một số vấn đề đặt ra
Qua nghiên cứu các quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng đối với các chủ thể bắt buộc phải áp dụng một số nhóm quy định của Luật để phòng ngừa tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước theo Luật Phòng, chống tham nhũng 2018 và Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01/7/2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng 2018, có thể thấy, các quy định về phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước hiện nay trong các văn bản pháp lý chung đã thể hiện được mục tiêu phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, những nội dung về phòng, chống tham nhũng tại các văn bản này lại chưa thực sự đầy đủ, đồng bộ và nhất quán, thể hiện thông qua một số vấn đề sau:
Thứ nhất, chưa có những quy định cụ thể, chi tiết về việc xử lý hành chính đối với hành vi khác vi phạm về phòng, chống tham nhũng trong các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước.
Các hành vi khác vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước là những hành vi vi phạm các quy định được quy định tại Chương VI, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, cụ thể là vi phạm về: (1) nguyên tắc công khai, minh bạch; nội dung công khai, minh bạch; hình thức công khai; trách nhiệm thực hiện việc công khai, minh bạch; (2) kiểm soát xung đột lợi ích; và (3) trách nhiệm, xử lý trách nhiệm của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu. Các hành vi vi phạm các quy định này nếu được thực hiện bởi công ty đại chúng, tổ chức tín dụng và tổ chức xã hội do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập hoặc phê duyệt điều lệ có huy động các khoản đóng góp của nhân dân để hoạt động từ thiện thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định tại Điều 95 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 và Điều 61 Nghị định số 59/2019/NĐ-CP.
Các quy định nêu trên giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng hay các hành vi khác vi phạm các quy định có liên quan trong Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, góp phần làm giảm tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước và thúc đẩy hoạt động đầu tư kinh doanh, tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh, bền vững, góp phần nâng cao ý thức tuân thủ các quy định pháp luật của các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước trong phòng, chống tham nhũng vì sự phát triển bền vững và môi trường kinh doanh lành mạnh. Mặc dù vậy, các quy định này vẫn còn khá chung chung, chưa mang tính đặc trưng của doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước, bởi từng loại hình doanh nghiệp, tổ chức lại có đặc thù riêng trong tổ chức, hoạt động của mình. Việc thiếu vắng các quy định điều chỉnh trực tiếp sẽ hạn chế đến hiệu lực, hiệu quả tổ chức thực hiện các quy định này trong thực tiễn. Do đó, vẫn cần có thêm hướng dẫn cụ thể đối với từng loại hình doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước, nhất là đối với 3 loại hình doanh nghiệp, tổ chức: công ty đại chúng, tổ chức tín dụng, các tổ chức xã hội hoạt động từ thiện về vấn đề này.
Thứ hai, chưa có văn bản quy định thống nhất về trình tự, thủ tục thanh tra trách nhiệm việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng đối với doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước.
Trách nhiệm thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng của doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước có sự khác biệt lớn so với khu vực công. Cụ thể, trình tự, thủ tục về xử lý vi phạm khi thanh tra phát hiện doanh nghiệp có hành vi vi phạm (các cơ quan thanh tra khi thanh tra phát hiện doanh nghiệp vi phạm phải gửi danh sách doanh nghiệp về các bộ, ngành, cơ quan quản lý lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp để tổng hợp, theo dõi, quản lý và công bố công khai trên Cổng thông tin điện tử. Danh sách tổ chức có hành vi vi phạm phải được gửi về Bộ Nội vụ hoặc Sở Nội vụ theo phân cấp quản lý để tổng hợp, theo dõi, quản lý và công bố công khai trên Cổng thông tin điện tử).
Tuy vậy, trình tự, thủ tục thực hiện này gồm những gì thì lại chưa được quy định cụ thể; hoặc sự phối hợp giữa cơ quan thanh tra với các cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực trong cung cấp, chia sẻ thông tin về tình hình hoạt động của doanh nghiệp như thế nào; phối hợp trong áp dụng các biện pháp xử lý trong kinh doanh ra sao cũng chưa được quy định rõ ràng? Và cũng chưa có quy định về thẩm quyền của các cơ quan thanh tra đối với từng loại hình doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước, nhất là thẩm quyền của các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính trong bối cảnh chính quyền địa phương hai cấp như hiện nay: cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) và cấp xã gồm xã, phường (trong đất liền) và đặc khu (ở hải đảo), bỏ cấp huyện và thị trấn.
Thứ ba, các cơ quan có thẩm quyền chưa có sự nhất quán trong việc ban hành đầy đủ, kịp thời các văn bản hướng dẫn chi tiết để thực hiện pháp luật phòng, chống tham nhũng tại doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước.
Các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh, Hiệp hội ngành nghề… chưa có sự nhất quán trong việc ban hành quy định riêng có tính chất hướng dẫn về xây dựng Bộ quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức kinh doanh; xây dựng và áp dụng các chuẩn mực về quản trị doanh nghiệp, đặc biệt là các chuẩn mực về công bố và minh bạch thông tin, quản lý rủi ro; ban hành các hướng dẫn về tổ chức, hoạt động của bộ phận kiểm soát nội bộ tại doanh nghiệp, việc xử lý tình huống xung đột lợi ích trong doanh nghiệp; hướng dẫn, tập huấn, tư vấn đối với doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước; phối hợp với cơ quan nhà nước tổ chức diễn đàn để trao đổi, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp, tổ chức phục vụ công tác phòng, chống tham nhũng.
3. Một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về công tác phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước
Một là, Chính phủ sớm ban hành một Nghị định có tính chất hướng dẫn chung về xây dựng Bộ quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức kinh doanh; xây dựng và áp dụng các chuẩn mực về quản trị doanh nghiệp, đặc biệt là các chuẩn mực về công bố và minh bạch thông tin, quản lý rủi ro; về tổ chức, hoạt động của bộ phận kiểm soát nội bộ tại doanh nghiệp, việc xử lý tình huống xung đột lợi ích trong doanh nghiệp; hướng dẫn, tập huấn, tư vấn đối với doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước; phối hợp với cơ quan nhà nước tổ chức diễn đàn để trao đổi, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp, tổ chức phục vụ công tác phòng, chống tham nhũng. Trong đó, quy định cụ thể Thanh tra Chính phủ là đơn vị chủ trì thực hiện, phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI là đơn vị giám sát việc thực hiện nhằm đảm bảo việc thực hiện phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước được công bằng, khách quan, minh bạch.
Hai là, ban hành văn bản pháp luật về xử lý hành chính đối với hành vi tham nhũng khác trong các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước. Qua rà soát, vẫn có một số dạng hành vi vi phạm của các chủ thể trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước chưa được pháp luật điều chỉnh, như: không ban hành và tổ chức thực hiện quy định về quy tắc ứng xử; lựa chọn các hình thức công khai, minh bạch; không thực hiện công khai, kiểm toán các khoản đóng góp của nhân dân; không xây dựng và thực hiện các biện pháp kiểm soát xung đột lợi ích… Vì vậy, để đảm bảo tính thống nhất, toàn diện, phù hợp với đặc thù của pháp luật phòng, chống tham nhũng thì cần có quy định về xử phạt hành chính đối với hành vi tham nhũng của người giữ chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước. Trong đó, cần chú trọng đến hình thức phạt tiền hoặc cấm tham gia vào các hoạt động kinh doanh (cấm tham gia đấu thầu trong một khoảng thời gian nhất định); thực hiện đăng tải công khai các doanh nghiệp, tổ chức có hành vi vi phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Ba là, sửa đổi, bổ sung quy định về các hành vi bị cấm trong pháp luật chuyên ngành bảo đảm thống nhất với Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018. Theo đó, quy định tại điểm d, khoản 2, Điều 20 của Luật Phòng, chống tham nhũng quy định người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị không được thành lập, giữ chức danh, chức vụ quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã thuộc lĩnh vực mà trước đây mình có trách nhiệm quản lý trong thời hạn nhất định theo quy định. Nghị định số 59/2019/NĐ-CP đã quy định thời hạn người có chức vụ, quyền hạn không được thành lập, giữ chức danh, chức vụ quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã thuộc lĩnh vực mà trước đây mình có trách nhiệm quản lý. Tuy nhiên, trong Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã không có quy định cấm người chức vụ, quyền hạn không được thành lập, giữ chức danh, chức vụ quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã sau khi thôi chức vụ. Vì vậy, cần bổ sung các quy định này khi sửa đổi, bổ sung Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã.
Bốn là, Thanh tra Chính phủ ban hành Thông tư về thanh tra, kiểm tra trách nhiệm việc thực hiện pháp luật phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước. Hiện tại, Thanh tra Chính phủ đã ban hành Thông tư số 07/2024/TT-TTCP ngày 01/7/2024 quy định về thẩm quyền, nội dung thanh tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về thanh tra, tiếp công dân, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, các quy định này quy định về thanh tra trách nhiệm việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng áp dụng chung đối với công tác quản lý nhà nước trong khu vực công. Qua rà soát các quy định pháp luật cho thấy, chủ thể, nội dung, hình thức, trình tự thủ tục… thực hiện quy định pháp luật của cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực công có sự khác biệt với các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước. Bên cạnh đó, hình thức thanh tra, kiểm tra; việc ban hành kết luận và tổ chức thực hiện kết luận thanh tra cũng có sự khác biệt khi so sánh với khu vực công, nhất là trong bối cảnh hiện nay thẩm quyền của các cơ quan thanh tra chia theo hai cấp: cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) và cấp xã gồm xã, phường (trong đất liền) và đặc khu (ở hải đảo). Ví dụ, trách nhiệm tổ chức thực hiện kết luận thanh tra phải trực tiếp là các doanh nghiệp, tổ chức có hành vi vi phạm mà không cần thông qua việc chỉ đạo của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước. Vì vậy, việc ban hành Thông tư điều chỉnh riêng về thanh tra trách nhiệm việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng đối với doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước là cần thiết.
Năm là, doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước chú trọng xây dựng quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, quy tắc đạo đức kinh doanh và cơ chế kiểm soát nội bộ. Xây dựng, ban hành văn bản có tính chất chung quy định về bộ quy tắc ứng xử, đạo đức kinh doanh, đạo đức nghề nghiệp thì ngoài việc thống nhất cách tiếp cận khi xây dựng, bảo đảm cụ thể hóa các dạng hành vi theo các tiêu chuẩn cụ thể; cần phải đưa ra hướng dẫn xử lý, giải quyết khi gặp phải hành vi đó; quy định rõ phương thức báo cáo, cảnh báo rõ ràng; giả định những tình huống xung đột lợi ích và phòng ngừa những tình huống đó; cách thức hướng dẫn thực hiện cho nhân viên, các cấp quản lý khi áp dụng.
4. Kết luận
Trên cơ sở phân tích những quy định của pháp luật, nhận thấy pháp luật Việt Nam đã bước đầu đã thể chế hóa các quy định liên quan đến việc phòng, chống tham nhũng về doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước, những quy định này cơ bản đã có xu hướng tiệm cận với các quy chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, các quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước vẫn còn những vướng mắc, hạn chế nhất định. Bài viết đã phân tích, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, giúp nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng đối với doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước. Những kiến nghị, giải pháp của bài viết góp phần hình thành luận cứ khoa học phục vụ cho việc đánh giá, hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Quốc hội, (2018), Luật Phòng, chống tham nhũng.
Quốc hội, (2020), Luật Doanh nghiệp.
Chính phủ (2019), Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 1/7/2019 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng.
Nguyễn Tuấn Khanh (2016), Trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước trong thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra, đề tài cấp Bộ.
Đinh Văn Minh, Phạm Thị Huệ, (2017), “Vấn đề tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước ở Việt Nam hiện nay”, Nxb Tư pháp.
Ủy ban Tư pháp Quốc hội, (2024), Báo cáo thẩm tra về Báo cáo công tác phòng, chống tham nhũng năm 2024 của Chính phủ;
Đào Thị Thu Hà, (2020), Phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước, đề tài cấp cơ sở.
Solutions to strengthen anti-corruption measures in non-state sector enterprises and organizations
Dao Thi Thu Ha
Institute of Strategy and Inspection Science, Government Inspectorate of Vietnam
Abstract:
This study examines the legal framework governing anti-corruption measures for entities required to implement such measures within enterprises and organizations in the non-state sector. Specifically, it analyzes the provisions of Article 80 of the 2018 Law on Anti-Corruption, which applies to public companies, credit institutions, and social organizations established or authorized by the Prime Minister, relevant ministries, or provincial authorities, including those mobilizing public contributions for charitable activities. By assessing the limitations and challenges in the current anti-corruption regulations affecting these entities, the study identifies gaps in the legal framework and proposes targeted recommendations to enhance the effectiveness of anti-corruption efforts within the non-state sector.
Keywords: non-state enterprises, non-state sector organizations, corruption, anti-corruption.
[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 15 năm 2025]
