TÓM TẮT:

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, giao dịch ngoại thương diễn ra ngày càng phổ biến, nhiều cả về số lượng và giá trị giao dịch, số lượng các công ty đa quốc gia, các công ty tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ngày càng tăng. Kế toán là công cụ trong quản lý kinh tế sẽ phải ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh đảm bảo cung cấp thông tin minh bạch, chính xác về tình hình tài chính của doanh nghiệp (DN). Luật Kế toán, chuẩn mực kế toán Việt Nam đã từng bước có sự cởi mở, tạo điều kiện cho công tác kế toán được thuận lợi và dễ dàng hơn. Tuy nhiên, việc quy đổi ngoại tệ và chuyển đổi đồng tiền ghi sổ không phải là một vấn đề đơn giản. Bài viết đề cập đến các quan điểm về đồng tiền ghi sổ trong kế toán và phương thức chuyển đổi các đồng tiền về đồng tiền ghi sổ trong kế toán các giao dịch ngoại tệ của các DN Việt Nam.

Từ khóa: Đồng tiền ghi sổ, kế toán, giao dịch ngoại tệ, doanh nghiệp.

1. Các quan điểm về đồng tiền ghi sổ trong kế toán

1.1. Quan điểm về đồng tiền ghi sổ tại các nước

Khi các giao dịch ngoại tệ phát sinh, DN có thể trao đổi, thanh toán bằng đồng tiền của các nước khác nhau theo thỏa thuận. Tuy nhiên, kế toán sẽ phải quy đổi các đồng tiền đó về một đơn vị tiền tệ thống nhất để thuận tiện cho việc ghi sổ và lập báo cáo kế toán.

Trong quá trình hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, tại DN có thể phát sinh các loại tiền tệ sau:

- Đồng tiền thực tế trong giao dịch ngoại tệ.

- Đồng tiền chức năng.

- Đồng tiền của nước sở tại.

Vấn đề đặt ra đối với các DN là nên sử dụng đồng tiền nào để ghi sổ.

- Thứ nhất, dựa trên địa điểm của DN.

Quan điểm này cho rằng các DN nên lựa chọn đồng tiền của nước sở tại nơi DN đặt trụ sở chính để ghi sổ kế toán. Như vậy, với các DN có đặt trụ sở ở Việt Nam thì sẽ sử dụng đồng Việt Nam làm đơn vị tiền tệ ghi sổ và khi phát sinh các giao dịch bằng ngoại tệ, DN sẽ quy đổi về đồng Việt Nam để ghi sổ.

- Thứ hai, dựa trên khái niệm về đồng tiền chức năng.

Đồng tiền chức năng là đồng tiền của môi trường kinh doanh chủ yếu của công ty đa quốc gia (theo IAS 21 - International accouting standard 21).

Như vậy, nếu một DN có các hoạt động mua và bán hàng chủ yếu ở thị trường của nước sở tại thì đồng tiền của nước sở tại sẽ là đồng tiền chức năng của DN đó và sẽ được sử dụng để ghi sổ kế toán. Ngược lại, nếu một DN nhập khẩu hầu hết các yếu tố đầu vào và xuất khẩu hầu hết các sản phẩm của mình thì sẽ không sử dụng đồng tiền của nước sở tại là đồng tiền chức năng mà sẽ sử dụng đồng tiền của nước mà hầu hết các hoạt động kinh tế của công ty sử dụng đến, không nhất thiết là đồng tiền của nước sở tại.

Như vậy, theo quan điểm này, đồng tiền ghi sổ là đồng tiền chức năng và lúc này, ngoại tệ có thể chính là đồng tiền của nước sở tại và sẽ được quy đổi về đồng tiền chức năng để phục vụ cho việc ghi chép.

Ví dụ: Một công ty có trụ sở tại Việt Nam nhưng lại có các hoạt động giao dịch chủ yếu là xuất nhập khẩu hàng hóa với thị trường Mỹ, sử dụng đồng Đô la Mỹ trong giao dịch thanh toán. Nếu theo quan điểm dựa trên đồng tiền chức năng của đơn vị, kế toán sẽ sử dụng đồng Đô la Mỹ là đồng tiền chức năng để phục vụ ghi sổ kế toán, còn các giao dịch khác phát sinh bằng đồng Việt Nam lúc này lại trở thành ngoại tệ và phải quy đổi về đồng Đô la Mỹ để phục vụ ghi sổ kế toán.

- Thứ ba, không dựa trên địa điểm của nước sở tại cũng như đồng tiền chức năng của các DN mà quyết định lựa chọn đồng tiền kế toán nào lại phụ thuộc vào quan điểm của các chủ sở hữu hoặc ban quản trị công ty và ảnh hưởng của sự dao động của tỷ giá tới lợi ích kinh tế của các chủ sở hữu.

Việc này xuất phát từ mối quan hệ ràng buộc giữa công ty mẹ và công ty con. Cuối kỳ kế toán, các công ty con sẽ phải lập báo cáo tài chính hợp nhất với công ty mẹ ở nước ngoài. Việc sử dụng đồng tiền nào trong ghi sổ kế toán sao cho việc ghi chép đơn giản nhất, hiệu quả nhất, có lợi nhất cho DN sẽ do các chủ sở hữu, các nhà quản lý quyết định.

Nhìn chung, mỗi quan điểm có thể phù hợp với tình hình thực tế của các DN trong mỗi quốc gia và trong mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh tế đó.

1.2. Quan điểm về đồng tiền ghi sổ tại Việt Nam

Vấn đề sử dụng đồng tiền ghi sổ ở Việt Nam hiện nay đang có sự dung hòa giữa quan điểm thứ nhất và quan điểm thứ hai. Ở Việt Nam, vấn đề về đồng tiền kế toán đã được qui định trong Luật Kế toán ban hành năm 2015, trong đó đề cập đơn vị tiền tệ sử dụng để ghi sổ của tất cả các công ty là đồng Việt Nam. Tuy nhiên, trường hợp nếu đơn vị kế toán chủ yếu thu, chi bằng ngoại tệ thì được tự chọn loại ngoại tệ đó làm đơn vị tiền tệ để kế toán nếu có được sự chấp thuận của Bộ Tài chính.

Quan điểm kết hợp này trong giai đoạn hiện nay là tương đối hợp lý xuất phát từ cơ chế điều hành quản lý nền kinh tế cũng như từ thực trạng của nền kinh tế Việt Nam.

Một mặt, nhằm thực hiện chính sách quản lý, thực hiện mục tiêu trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam, tránh tình trạng Đô la hóa. Mặt khác, các DN ở Việt Nam phần lớn vẫn là các DN vừa và nhỏ, nếu có hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thường ở 2 trường hợp sau:

- Nhập khẩu và xuất bán trong nước.

- Mua hàng trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài

Do vậy, bên cạnh các giao dịch ngoại tệ, các giao dịch trong nước tại các DN ở Việt Nam cũng chiếm một tỷ lệ tương đối lớn, do đó, quan điểm đồng tiền ghi sổ căn cứ vào đồng tiền của nước sở tại (Việt Nam) như quy định hiện nay là tương đối phù hợp.

Tuy nhiên, Việt Nam cũng phải thực hiện các cam kết của mình trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, đó là sự hội nhập về kinh tế, về kế toán,… Lúc này, tại Việt Nam đã dần hình thành và xuất hiện các công ty đa quốc gia với các giao dịch trong môi trường quốc tế sử dụng các loại tiền tệ khác nhau (và khác với Đồng Việt Nam). Chính vì vậy, việc cởi mở trong việc quy định đồng tiền ghi sổ khác với Đồng Việt Nam không chỉ phù hợp với thực trạng kinh tế mà còn phù hợp trong bối cảnh hội nhập kinh tế, kế toán quốc tế.

Quan điểm kết hợp như hiện nay là tương đối phù hợp. Tuy nhiên, nếu trong tương lai, khi quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng hơn nữa, các DN Việt Nam đầu tư ra nước ngoài và các tập đoàn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam ngày càng nhiều, các giao dịch kinh tế liên quan đến ngoại tệ trở thành chủ yếu và phổ biến hơn thì quan điểm đồng tiền ghi sổ kết hợp như hiện nay có thể không còn phù hợp nữa, lúc đó DN cần căn cứ vào đồng tiền chức năng để làm đồng tiền ghi sổ, vì nếu một DN có các giao dịch chủ yếu liên quan đến một loại ngoại tệ nhất định thì việc lựa chọn loại tiền tệ đó làm đồng tiền ghi sổ có thể sẽ làm công việc của kế toán đơn giản hơn và tránh được việc theo dõi và ghi nhận những biến động phức tạp của tỷ giá, thông tin thống nhất góp phần phản ánh và đánh giá chính xác tình hình tài chính cũng như hiệu quả hoạt động của DN.

2. Việc sử dụng đồng tiền ghi sổ trong kế toán các giao dịch ngoại tệ tại Việt Nam

Việc lựa chọn đồng tiền ghi sổ là một vấn đề quan trọng trong kế toán. Các giao dịch ngoại tệ khi phát sinh sẽ được chuyển đổi sang đồng tiền ghi sổ theo tỷ giá quy định của ngân hàng nơi DN phát sinh hoặc dự kiến phát sinh giao dịch. Theo quy định hiện hành (chế độ kế toán ban hành theo Thông tư 200/2014/TT-BTC và sửa đổi theo Thông tư 53/2016/TT-BTC), DN có thể sử dụng tỷ giá mua, bán của ngân hàng nơi phát sinh giao dịch hoặc tỷ giá xấp xỉ tỷ giá chuyển khoản trung bình của ngân hàng.

Đối với các DN Việt Nam, kế toán ghi sổ đối với các giao dịch ngoại tệ có thể phát sinh các trường hợp sau:

2.1. Trường hợp đồng tiền ghi sổ và lập báo cáo tài chính (BCTC) là đồng Việt Nam

Trường hợp này, các DN sử dụng đồng tiền ghi sổ là đồng tiền của nước sở tại (Việt Nam) làm đồng tiền ghi sổ và lập BCTC, ngoại tệ lúc này là đồng tiền khác với đồng Việt Nam (VD: USD, EUR,...).

- Theo quy định hiện nay, khi ghi nhận nợ phải thu là ngoại tệ: Kế toán sử dụng tỷ giá mua của ngân hàng thương mại nơi doanh nghiệp chỉ định khách hàng thanh toán tại thời điểm giao dịch.

- Khi ghi nhận nợ phải trả: Tỷ giá sử dụng là tỷ giá bán của ngân hàng thương mại nơi doanh nghiệp dự kiến giao dịch tại thời điểm giao dịch.

- Khi ghi nhận các giao dịch mua sắm tài sản hoặc các khoản chi phí được thanh toán ngay bằng ngoại tệ (không qua các tài khoản phải trả) là tỷ giá mua của ngân hàng thương mại nơi doanh nghiệp thực hiện thanh toán.

Ngoài tỷ giá giao dịch thực tế nêu trên, doanh nghiệp có thể lựa chọn tỷ giá giao dịch thực tế làtỷ giá xấp xỉ với tỷ giá mua bán chuyển khoản trung bình của ngân hàng thương mại nơi doanh nghiệp thường xuyên có giao dịch. Tỷ giá xấp xỉ phải đảm bảo chênh lệch không vượt quá +/-1% so với tỷ giá mua bán chuyển khoản trung bình. Tỷ giá mua bán chuyển khoản trung bình được xác định hàng ngàyhoặc hàng tuần hoặc hàng tháng trên cơ sở trung bình cộng giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán chuyển khoản hàng ngày của ngân hàng thương mại.

2.2. Trường hợp đồng tiền ghi sổ và lập BCTC không phải là đồng Việt Nam

Ngoài trường hợp DN sử dụng đồng tiền ghi sổ và lập BCTC là Đồng Việt Nam, các DN có thể lựa chọn các đồng tiền khác làm đồng tiền ghi sổ và lập BCTC theo quan điểm dựa trên khái niệm đồng tiền chức năng.

Trong trường hợp này, khi phát sinh các giao dịch ngoại tệ liên quan đến việc ghi nhận doanh thu, chi phí, công nợ,... nếu DN sử dụng tỷ giá mua, bán của ngân hàng để quy đổi ngoại tệ thì việc chuyển đổi đồng tiền khác sang đồng tiền ghi sổ được thực hiện như sau:

- Tỷ giá mua được hiểu là tỷ giá DN bán ngoại tệ (VND và các loại ngoại tệ khác) cho ngân hàng và ngân hàng sẽ mua ngoại tệ (VND và các loại ngoại tệ khác) của DN, tức là ngân hàng sẽ bán USD cho DN theo tỷ giá bán.

- Tỷ giá bán là tỷ giá DN mua ngoại tệ và ngân hàng bán ngoại tệ cho DN, tức là ngân hàng sẽ xuất tiền Việt và mua ngoại tệ của DN theo tỷ giá mua.

Tóm lại, loại tỷ giá thực tế sử dụng để quy đổi sẽ “ngược” với trường hợp quy định đồng tiền ghi sổ là đồng Việt Nam.

Ví dụ: DN A ghi sổ bằng đồng USD. Tại thời điểm ngày 01/4/N, DN thu hồi công nợ khách hàng: 444.400.000 (VND). Tỷ giá mua/bán ngoại tệ USD/VND do ngân hàng công bố: 20.000/20.200. Khi thu hồi được công nợ, DN sẽ bán ngoại tệ (VND) cho ngân hàng, ngân hàng sẽ mua ngoại tệ (VND) và bán USD cho DN, DN ghi sổ:

Nợ TK 112: 444.400.000/20.200 = 22.000 (USD)

Có TK 131: 22.000 (USD)

Với cách yết tỷ giá theo phương pháp trực tiếp như của ngân hàng tại Việt Nam hiện nay, tỷ giá thực tế sử dụng để quy đổi các giao dịch phát sinh bằng ngoại tệ trong trường hợp đồng tiền ghi sổ không phải là đồng Việt Nam cụ thể như sau:

Trường hợp khi DN ghi sổ bằng một đồng tiền (VD: USD), ngoại tệ phát sinh là đồng VND:

+ Tỷ giá giao dịch thực tế khi ghi nhận nợ phải thu: Là tỷ giá bán của ngân hàng thương mại nơi doanh nghiệp chỉ định khách hàng thanh toán tại thời điểm giao dịch phát sinh;

+ Tỷ giá giao dịch thực tế khi ghi nhận nợ phải trả: Là tỷ giá mua của ngân hàng thương mại nơi doanh nghiệp dự kiến giao dịch tại thời điểm giao dịch phát sinh.

+ Đối với các giao dịch mua sắm tài sản hoặc các khoản chi phí được thanh toán ngay bằng ngoại tệ (không qua các tài khoản phải trả), tỷ giá giao dịch thực tế là tỷ giá bán của ngân hàng thương mại nơi doanh nghiệp thực hiện thanh toán.

Tại thời điểm cuối kỳ khi chuyển đổi các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ, loại tỷ giá sử dụng để quy đổi đối với từng khoản mục như sau:

- Tỷ giá giao dịch thực tế khi đánh giá lại các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ được phân loại là tài sản: Là tỷ giá bán của ngân hàng thương mại nơi doanh nghiệp thường xuyên có giao dịch tại thời điểm lập Báo cáo tài chính. Đối với các khoản ngoại tệ gửi ngân hàng thì tỷ giá thực tế khi đánh giá lại là tỷ giá bán của chính ngân hàng nơi doanh nghiệp mở tài khoản ngoại tệ.

- Tỷ giá giao dịch thực tế khi đánh giá lại các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ được phân loại là nợ phải trả: Là tỷ giá mua của ngân hàng thương mại tại thời điểm lập BCTC.

Trường hợp DN ghi sổ bằng một đồng tiền (VD: USD), phát sinh giao dịch bằng ngoại tệ là đồng tiền khác với đồng VND (VD: EUR):

Nguyên tắc thực hiện cũng tương tự như trường hợp ngoại tệ là đồng VND và các bước chuyển đổi được thực hiện như sau:

- Xác định tỷ giá chéo giữa đồng ngoại tệ và đồng tiền ghi sổ

- Xác định giá trị ngoại tệ theo đồng tiền ghi sổ.

Ví dụ: DN ghi sổ bằng đồng USD. Tại thời điểm ngày 01/5/N, DN nhập khẩu một lô hàng trị giá 50.000 EUR. Tỷ giá thực tế mua/bán tại thời điểm nhập hàng:

EUR/VND = 23.000/23.500

USD/VND = 21.000/21.500

+ Xác định tỷ giá chéo như sau:

Tỷ giá mua của khách hàng EUR/USD:

TG mua (KH EUR/USD) = TG bán (NH EUR/VND)/TG mua (NH USD/VND)

                                        = 23.500/21.000 = 1,119

Tỷ giá bán của khách hàng EUR/USD:

TG bán (KH EUR/USD) = TG mua (NH EUR/VND)/TG bán (NH USD/VND)

                                       = 23.000/21.500 = 1,070

Như vậy, ngân hàng sẽ niêm yết tỷ giá EUR/USD = 1,070/1,119

Trong trường hợp này, DN sẽ cần mua EUR và ngân hàng sẽ bán EUR cho DN. Tỷ giá thực tế dùng để quy đổi, xác định giá trị ghi sổ sẽ là tỷ giá bán.

+ Xác định giá trị ngoại tệ theo đồng tiền ghi sổ: 50.000 EUR = 50.000 x 1,119 = 55.950 (USD)

Kế toán ghi sổ:

Nợ TK 156: 55.950

Có TK 331 :55.950

Ngoài cách lựa chọn sử dụng tỷ giá mua, bán của ngân hàng để ghi nhận giao dịch ngoại tệ trong kinh doanh xuất nhập khẩu như trên, DN có thể sử dụng tỷ giá trung bình hoặc tỷ giá xấp xỉ tỷ giá trung bình trong ghi nhận các giao dịch ngoại tệ như sau:

- Trường hợp ngoại tệ phát sinh là đồng Việt Nam, tỷ giá trung bình được sử dụng chính là tỷ giá trung bình của tỷ giá giữa đồng tiền ghi sổ và đồng Việt Nam.

Ví dụ: DN ghi sổ bằng đồng USD, các giao dịch ngoại tệ trong kinh doanh xuất nhập khẩu phát sinh bằng đồng VND. Tại thời điểm nhập khẩu tỷ giá USD/VND: 21.200/21.500. Tỷ giá trung bình được xác định để ghi nhận các giao dịch ngoại tệ là: 21.350

- Trường hợp DN ghi sổ bằng một đồng tiền (VD: USD), ngoại tệ phát sinh là đồng tiền khác với đồng VND (VD: EUR), trình tự xác định tỷ giá trung bình để ghi nhận giao dịch như sau:

+ Xác định tỷ giá trung bình của các đồng tiền có liên quan với đồng VND.

+ Xác định tỷ giá trung bình giữa đồng tiền ghi sổ và ngoại tệ (thông qua cách xác định tỷ giá chéo).

3. Một số đánh giá và kết luận

3.1. Một số đánh giá về đồng tiền ghi sổ trong kế toán các giao dịch ngoại tệ

Tác giả đã tiến hành khảo sát thực tế tại hơn 100 DN và thực tế khảo sát cho thấy, phần lớn (tỷ lệ hơn 90%) các DN hiện nay vẫn đang sử dụng đồng tiền ghi sổ là đồng Việt Nam, trong đó: Tất cả các DN có vốn đầu tư trong nước đều sử dụng đồng tiền ghi sổ là Đồng Việt Nam. Đối với các DN có vốn đầu tư nước ngoài, vẫn có rất nhiều DN lựa chọn Đồng Việt Nam là đồng tiền ghi sổ, chỉ có một số DN sử dụng đồng tiền ghi sổ không phải là Đồng Việt Nam và đồng tiền các DN này lựa chọn thường là các đồng tiền mạnh như: Đô la Mỹ, Euro...

Về tỷ giá sử dụng khi quy đổi ngoại tệ về đồng tiền ghi sổ nhằm ghi nhận giao dịch ngoại tệ: Khi phát sinh các giao dịch ngoại tệ, các DN hiện nay chủ yếu vẫn sử dụng tỷ giá quy đổi là tỷ giá mua, bán của ngân hàng nơi phát sinh hoặc dự kiến phát sinh giao dịch.

- Đối với đồng tiền ghi sổ: Việc hầu hết các DN hiện nay sử dụng đồng tiền ghi sổ là đồng tiền Việt Nam là tương đối phù hợp với thực trạng DN cũng như với nền kinh tế Việt Nam bởi các DN Việt Nam hiện nay phần lớn vẫn là các DN vừa và nhỏ, sử dụng vốn đầu tư trong nước, các hoạt động chủ yếu của các DN vẫn là: nhập khẩu và xuất bán trong nước hoặc thu mua trong nước và xuất khẩu, do vậy các giao dịch bằng đồng nội tệ vẫn chiếm tỷ lệ lớn. Vì vậy, việc DN sử dụng đồng Việt Nam trong ghi sổ và lập báo cáo là hợp lý trong thời điểm bối cảnh nền kinh tế như hiện nay.

Về tỷ giá sử dụng khi quy đổi ngoại tệ trong kế toán các giao dịch ngoại tệ: Việc kế toán sử dụng tỷ giá mua, bán của ngân hàng để quy đổi ngoại tệ phù hợp với thực trạng các DN không có quá nhiều giao dịch ngoại tệ. Tuy nhiên, với các DN phát sinh nhiều giao dịch ngoại tệ, giá trị giao dịch lớn và biến động của tỷ giá ảnh hưởng lớn đến tình hình tài chính của DN thì có thể lựa chọn tỷ giá quy đổi là tỷ giá chuyển khoản trung bình của ngân hàng, việc này sẽ giúp công việc của kế toán đơn giản hơn, giảm bớt việc ghi chép và theo dõi của kế toán.

3.2. Kết luận

Nhìn chung, việc lựa chọn đồng tiền nào là đồng tiền ghi sổ sẽ phụ thuộc vào quy định hiện hành cũng như quan điểm của DN. Dưới góc độ kế toán, việc DN lựa chọn đồng tiền nào là đồng tiền ghi sổ đối với kế toán không phải là vấn đề khó khăn song phải đảm bảo phản ánh đầy đủ, chính xác các nghiệp vụ kinh tế phát sinh dưới hình thức của một đơn vị tiền tệ bất kỳ nào. Việc này đòi hỏi phải có sự quy đổi chính xác giữa các đồng tiền trong giao dịch, thanh toán và đồng tiền ghi sổ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Bộ Tài chính, Thông tư 200/2014/TT-BTC.

2. Bộ Tài chính, Thông tư 53/2016/TT-BTC.

3. Zardoya, A. (1995), Performance Evaluation of the Foreign Operations of Multinational Companies: Currency Choice and the Application of Exchange Rates, Department of Accounting and Finance, University of Zaragoza (Spain).

DISCUSSIONS ABOUT PRESENTATION CURRENCIES USED

IN ACCOUNTING OPERATIONS OF FOREIGN CURRENCY

TRANSACTIONS OF VIETNAMESE ENTERPRISES

Master. NGUYEN THI MINH GIANG

Faculty of Accounting and Auditing, Vietnam Commercial University

ABSTRACT:

In the context of international economic integration, trade activities between Vietnamese and foreign enterprises have withnessed a significant increase in terms of both quantity and value of transactions. In addition, the number of multinational companies which are in import-export sector of Vietnam is surging. The main function of accounting which is an economic management tool is to record economic transactions of enterprises in order to provide transparent and accurate financial information. In recent years, the changes which are associated with the Law on Accounting of Vietnam and Vietnamese Accounting Standards have facilitated accounting of enterprises. However, the accounting issues related to the conversion of foreign currencies and the conversion of presentation currencies are still unsolved. This study introduces different views about presentation currencies and also the method of converting currencies into presentation currencies related to the accounting operations of foreign currency transactions of Vietnamese enterprises.

Keywords: Presentation currency, accounting, foreign currency transaction, enterprise.

Xem toàn bộ ấn phẩm Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 04 + 05 tháng 04/2017 tại đây