Nền tảng cho phát triển công nghiệp hiện đại
Ngành công nghiệp hóa chất là một trong những ngành nền tảng, đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguyên liệu, vật tư cho hàng loạt lĩnh vực sản xuất như cơ khí, điện tử, dệt may, da giày, nông nghiệp, năng lượng và y tế.
Tại Việt Nam, hiện nay, tổng thể ngành công nghiệp hóa chất được chia thành 10 phân ngành chính, bao gồm: Hóa dầu; hóa chất cơ bản (bao gồm cả hoá chất tiêu dùng hóa chất tinh khiết…); phân bón; hóa dầu; sản phẩm cao su, sơn - mực in, khí công nghiệp; nguồn điện hóa học (pin, ắc quy); hóa chất bảo vệ thực vật; sản phẩm chất tẩy rửa và một số hóa chất khác.
Thời gian qua, nhờ những chính sách, cơ chế phát triển của Nhà nước và nỗ lực của doanh nghiệp, ngành công nghiệp hóa chất đã có bước phát triển mạnh mẽ, sản xuất được nhiều chủng loại sản phẩm hơn, chất lượng được cải thiện, một số lĩnh vực của ngành đã cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu trong nước và hướng tới xuất khẩu.
Ngành hóa chất đã hình thành được những tổ chức nghiên cứu, cơ sở sản xuất, kinh doanh trong các lĩnh vực của ngành, bước đầu hình thành một số tổ hợp công nghiệp hóa dầu và một số khu, cụm công nghiệp tập trung nhiều doanh nghiệp hóa chất. Ngành công nghiệp hóa chất duy trì được mức tăng trưởng ổn định qua các năm (trung bình 10 - 11%/năm). Trong số 10 ngành công nghiệp lớn nhất cả nước theo phân ngành cấp 2, công nghiệp hóa chất được xếp vào nhóm ngành thứ ba, chiếm tỷ trọng 2-5% GDP toàn ngành công nghiệp.
Lực lượng lao động trong ngành hóa chất khoảng 2,7 triệu người, chiếm 10% lực lượng lao động của toàn ngành công nghiệp. Năng suất lao động của ngành công nghiệp hóa chất bằng 1,36 lần năng suất lao động trung bình của toàn ngành công nghiệp.
Sản phẩm hóa chất sản xuất trong nước đã đa dạng hơn về chủng loại, chất lượng được cải thiện, dần tiệm cận với các sản phẩm trong khu vực. Một số lĩnh vực của ngành đã cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu trong nước và hướng tới xuất khẩu như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, săm lốp, son thông dụng, sản phẩm tẩy rửa, tiền chất thuốc nổ amoni nitrat (NH4NO3). Hầu hết các dự án hóa chất trong những năm gần đây sử dụng công nghệ tiên tiến, tiệm cận với trình độ khu vực và thế giới, các yếu tố an toàn, môi trường được nâng cao.
Bứt phá nhờ các dự án trọng điểm
Số liệu của Cục Thống kê (Bộ Tài chính) cho thấy, giá trị sản xuất công nghiệp (IIP) của nhóm ngành sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất đã có nhiều biến động đáng chú ý trong giai đoạn 2014 - 2024. Giai đoạn 2014 - 2020, tăng trưởng IIP ngành hóa chất duy trì ở mức 4 - 9%/năm, phản ánh quá trình mở rộng sản xuất và đầu tư vào các nhà máy phân bón, sơn, hóa chất cơ bản. Tuy nhiên, năm 2021, chỉ số này sụt giảm mạnh do ảnh hưởng của dịch COVID-19, đứt gãy chuỗi cung ứng và giá nguyên liệu nhập khẩu tăng cao.
Sau năm 2022, ngành công nghiệp hóa chất chứng kiến xu hướng phục hồi rõ nét: năm 2023 tăng 9% và năm 2024 đạt mức tăng 11,9%, mức cao nhất trong 10 năm, thể hiện sự bứt phá của các doanh nghiệp trong ngành trước xu hướng tự chủ nguyên liệu và thúc đẩy sản xuất trong nước.

Thật vậy, những năm gần đây, Việt Nam đã chứng kiến sự xuất hiện của hàng loạt dự án hóa chất quy mô lớn, góp phần nâng cao năng lực sản xuất và giá trị gia tăng trong nước.
Theo Cục Hoá chất (Bộ Công Thương), nhờ chính sách phát triển ngành công nghiệp hoá chất dần hoàn thiện, giai đoạn 2022 - 2025, đã có nhiều dự án công nghiệp hóa chất đã và đang được triển khai trong đó có 27 dự án công nghiệp hóa chất tiêu biểu với tổng mức đầu tư khoảng 99.928 tỷ đồng trên nhiều phân ngành đã được định hướng.
Cụ thể, 9 dự án sản xuất sản phẩm cao su, cao su kỹ thuật, được đầu tư tập trung chủ yếu tại các tỉnh Bình Dương (nay là Thành phố Hồ Chí Minh); Tây Ninh; Bình Phước (nay là Đồng Nai); Đồng Tháp. Tổng mức đầu tư giai đoạn ước tính đạt 33.708 tỷ đồng, tổng công suất khoảng 56 triệu sản phẩm/năm.
Ngoài ra, có 4 dự án nguồn điện hóa học, được đầu tư tại Tây Ninh, Đồng Nai và Hải Phòng. Tổng mức đầu tư giai đoạn ước tính đạt 1.989 tỷ đồng, tổng công suất ắc quy chì trên 7 triệu KVA/năm và pin các loại 1.830.000 chiếc/năm.
7 dự án sản xuất hóa chất cơ bản các loại, được đầu tư tập trung chủ yếu tại các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung bộ. Tổng mức đầu tư giai đoạn ước tính đạt 5.319 tỷ đồng. Cùng 2 dự án hóa dầu, 1 dự án tại Quảng Ninh và 1 dự án tại Bà Rịa - Vũng Tàu (nay là Thành phố Hồ Chí Minh)…
Ngoài ra, một số nhà đầu tư nước ngoài cũng đang trong quá trình khảo sát địa điểm, tìm hiểu, đánh giá cơ hội, xin chủ trương đầu tư dự án hóa chất tại Việt Nam như: Tập đoàn AGC (Nhật Bản) tìm hiều về đầu tư dự án sản xuất xút-clo; Tập đoàn Công nghệ và Thương mại Đông Cảng (Trung Quốc) tiến hành khảo sát địa điểm để nghiên cứu xây dựng Khu công nghiệp hóa chất tinh chế.
Nhờ các dự án này, ngành hóa chất Việt Nam đang dần hình thành chuỗi giá trị khép kín từ nguyên liệu cơ bản đến sản phẩm tinh chế, từng bước nâng tỷ lệ nội địa hóa và gia tăng năng lực cạnh tranh.
Kỳ vọng động lực phát triển mới
Chiến lược phát triển ngành công nghiệp hóa chất Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2040 đặt mục tiêu, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng công nghiệp ngành hóa chất đạt bình quân từ 10 - 11%/năm và tỷ trọng ngành công nghiệp hóa chất so với toàn ngành công nghiệp đạt khoảng 4 - 5% vào năm 2030; giai đoạn đến năm 2040, tốc độ tăng trưởng công nghiệp ngành hóa chất đạt bình quân từ 7 - 8%/năm và tỷ trọng ngành công nghiệp hóa chất so với toàn ngành công nghiệp duy trì khoảng 4 - 5%.
Đến năm 2030, duy trì mức đáp ứng nhu cầu trong nước đối với các loại phân bón ure, lân, NPK, sản phẩm thuốc bảo vệ thực vật, săm lốp, khí công nghiệp, sơn - mực in thông dụng, chất tẩy rửa, pin thông dụng và phát triển thị trường xuất khẩu. Đáp ứng được một phần nhu cầu trong nước các sản phẩm phân bón sunfat amon. Nâng khả năng đáp ứng nhu cầu trong nước bình quân của các sản phẩm hóa dầu lên 40%, hoạt chất bảo vệ thực vật lên 30%, hóa chất cơ bản lên 70%, cao su kỹ thuật lên 40%, ắc quy lên 75%.
Đến năm 2040, đáp ứng được một phần nhu cầu trong nước các sản phẩm hóa chất cơ bản hữu cơ, sơn đặc chủng, pin - ắc quy công nghệ cao. Nâng khả năng đáp ứng nhu cầu trong nước bình quân của các sản phẩm hóa dầu lên 60%, hoạt chất bảo vệ thực vật lên 50%, hóa chất cơ bản lên 80%, cao su kỹ thuật lên 50%, ắc quy lên 80%.
Phấn đấu nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân 9 - 11%/năm trong thời kỳ 2021 - 2030, giai đoạn 2030 - 2040 tăng trưởng bình quân 7,5 - 9%/năm.
Để đạt được các mục tiêu này, ngành hóa chất sẽ tập trung vào 2 nhóm giải pháp đột phá.
Thứ nhất, hình thành các khu công nghiệp hóa chất tập trung và trung tâm logistic. Nghiên cứu, khuyến khích đầu tư hình thành các tổ hợp, khu công nghiệp hóa chất tập trung và trung tâm logistic thu hút các dự án sản xuất hóa chất, các dự án sử dụng hóa chất để sản xuất trong các lĩnh vực công nghiệp khác; tại các địa điểm có diện tích đủ lớn, xa khu vực dân cư, gần cảng nước sâu, thuận tiện kết nối giao thông; có đầy đủ cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và dịch vụ, đảm bảo các yêu cầu về an toàn, môi trường, phát triển bền vững.
Nghiên cứu, đề xuất bổ sung các dự án đầu tư hạ tầng khu công nghiệp hóa chất tập trung và các dự án đầu tư trong khu công nghiệp hóa chất tập trung vào danh mục ngành nghề ưu đãi đầu tư và xây dựng cơ chế ưu đãi đặc thù cho các dự án này.
Thực hiện các hoạt động xúc tiến đầu tư, kêu gọi đầu tư các dự án hạ tầng khu công nghiệp và các dự án đầu tư trong khu công nghiệp hóa chất tập trung.
Thứ hai, đổi mới thể chế quản lý hoạt động đầu tư trong ngành công nghiệp hóa chất. Đảm bảo cơ chế ưu đãi đầu tư đối với các dự án hóa dầu, hóa dược, hóa chất cơ bản, cao su theo quy định của pháp luật; tạo điều kiện cho các dự án ưu tiên tiếp cận được với chế độ ưu đãi về thuế, đất đai, lao động...
Sửa đổi, bổ sung các quy định về yêu cầu đối với dự án hóa chất: Đảm bảo phù hợp chiến lược phát triển ngành, chiến lược, quy hoạch phát triển địa phương, vùng lãnh thổ; các yêu cầu đảm bảo an toàn hóa chất và bảo vệ môi trường; các yêu cầu về áp dụng công nghệ tiên tiến; sử dụng hợp lý các nguồn lực, tài nguyên, bảo đảm sử dụng tiết kiệm, hiệu quả năng lượng; áp dụng tiêu chí hóa học xanh.
Tăng cường cơ chế phối hợp trong công tác quản lý đầu tư trong lĩnh vực hóa chất. Cơ quan chấp thuận chủ trương đầu tư cấp tỉnh cần lấy ý kiến của Bộ Công Thương về sự phù hợp của các dự án đầu tư trong lĩnh vực hóa chất với Chiến lược phát triển ngành.
Tạo sự bình đẳng giữa các khu vực kinh tế, đặc biệt tập trung nâng cao hơn nữa vai trò của khu vực kinh tế tư nhân thông qua việc thực thi có hiệu quả việc bảo hộ quyền sở hữu và bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực.
Xây dựng cơ sở dữ liệu về dự án đầu tư trong lĩnh vực hóa chất, ứng dụng công nghệ số để nâng cao hiệu quả hoạt động, tạo ra lợi thế cạnh tranh trên thị trường và tính bền vững của hoạt động công nghiệp hóa chất.
