Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là phương pháp luận sản xuất sạch hơn xuất phát từ các nước phát triển với nền sản xuất công nghiệp tiên tiến và nền văn hóa cơ bản khác với Việt Nam liệu có phải là rào cản đối với việc phổ biến công cụ này tại Việt Nam?

Các chuyên gia và tổ chức trong và ngoài nước đã có một số nghiên cứu đánh giá về những yếu tố có thể được coi là rào cản của sản xuất sạch hơn tại Việt Nam. Những rào cản này có thể được phân thành 4 loại hình chính: (1) chính sách của nhà nước, (2) động lực của cơ sở sản xuất, (3) rào cản về kỹ thuật và (4) rào cản về quản lý. 

Về vấn đề chính sách, chúng ta còn gặp nhiều khó khăn trong việc cưỡng chế tuân thủ đối với các quy định của Nhà nước, do vậy nhiều cơ sở sản xuất còn chưa thực sự quan tâm đến bảo vệ môi trường. Ngoài ra, nhiều nguồn lực đầu vào sản xuất (đặc biệt là nước và nhân công) của chúng ta còn quá rẻ so với nhiều nước, nên các doanh nghiệp chưa nhìn nhận được tầm quan trọng của việc tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên.

Rào cản thứ hai liên quan đến động lực của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp chưa quán triệt quan điểm người gây ô nhiễm phải trả tiền trong chính sách bảo vệ môi trường của Nhà nước và cho rằng, bảo vệ môi trường là việc của Nhà nước. Quan điểm chờ đợi hỗ trợ của Nhà nước còn tương đối phổ biến. Các doanh nghiệp cũng chưa thực sự hiểu lợi ích của sản xuất sạch hơn mà đơn thuần cho rằng sản xuất sạch hơn cũng tương tự như việc xây dựng hệ thống xử lý chất thải, thường gây chi phí tăng thêm.

Về mặt kỹ thuật, nhiều cơ sở sản xuất của ta còn tương đối yếu về kiểm toán và hạch toán nội bộ nên không đo đếm được mức chi phí của mình mất đi theo chất thải. Do vậy không nhận thấy sự cần thiết áp dụng sản xuất sạch hơn để giảm chất thải đồng thời giảm chi phí sản xuất. Việc phổ biến sản xuất sạch hơn thường dựa trên mạng lưới các nhà tư vấn nhưng ngay cả các chuyên gia tư vấn của ta cũng thiếu về số lượng và chất lượng. Đặc biệt thiếu là các chuyên gia sản xuất sạch hơn chuyên ngành.

Với rào cản chính sách, các cơ quan quản lý ngành tài nguyên và môi trường đã có nhiều nỗ lực trong việc cưỡng chế tuân thủ với pháp luật về bảo vệ môi trường, giá năng lượng và các tài nguyên khác cũng dần tăng lên khiến các doanh nghiệp quan tâm hơn đến việc nâng hiệu quả sử dụng tài nguyên. Bộ Công Thương thông qua dự án ODA do Đan Mạch tài trợ cũng đang thực hiện nâng cao nhận thức và năng lực cho các cơ sở sản xuất và tăng cường bổ sung các chuyên gia tư vấn về sản xuất sạch hơn.

Loại hình rào cản từ trước đến nay chưa được chú ý nhiều đó là các rào cản mang tính quản lý bao gồm, văn hóa doanh nghiệp, sự phù hợp của sản xuất sạch hơn đối với phương thức quản lý của Việt Nam và kỹ năng quản lý của các chủ doanh nghiệp. Một cuộc điều tra đối với 4 nhóm đại diện bao gồm, nhóm chuyên gia tư vấn về sản xuất sạch hơn, nhóm cán bộ quản lý nhà nước liên quan đến sản xuất sạch hơn, nhóm doanh nghiệp đã áp dụng sản xuất sạch hơn và nhóm doanh nghiệp chưa áp dụng sản xuất sạch hơn để xác định đây có thực sự là rào cản và nếu là rào cản thì cần phải có những giải pháp gì để khắc phục đã được tiến hành.

Qua lăng kính của các chuyên gia ngoài nước, người Việt Nam có quan điểm ngại thay đổi, nên các doanh nghiệp do họ quản lý cũng phải chịu văn hoá quản lý “tĩnh”, kém linh hoạt trong việc đưa các công cụ quản lý mới vào áp dụng. Để khắc phục được rào cản này, nhà quản lý cần phải kết hợp giải pháp tăng áp lực từ cơ quan quản lý đồng thời tăng cường tuyên truyền về lợi ích của sản xuất sạch hơn.

Nhận định về tính phù hợp của sản xuất sạch hơn đối với phương thức quản lý của các doanh nghiệp Việt Nam, các chuyên gia cho rằng, sản xuất sạch hơn là một giải pháp có tính quy trình, hệ thống, chủ động và liên tục trong khi các doanh nghiệp Việt Nam quen thuộc hơn với các giải pháp có tính nhiệm vụ, một lần, thiếu chủ động và ngắn hạn. Để sản xuất sạch hơn phù hợp với Việt Nam, các hướng dẫn kỹ thuật về sản xuất sạch hơn cần được Việt Nam hóa như điều chỉnh thuật ngữ cho gần gũi hơn; cách mô tả các bước thực hiện cần đơn giản hoá; cần có hướng dẫn riêng và cụ thể hơn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Đối với rào cản là kỹ năng quản lý, các doanh nghiệp trước hết cần phải có hệ thống quản lý tối thiểu, mặt khác để đo được lợi ích của sản xuất sạch hơn, chủ doanh nghiệp cần thường xuyên cập nhật các dữ liệu sản xuất của mình, trong khi đó nhiều doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ không có hệ thống lưu giữ dữ liệu sản xuất. Do vậy, việc nâng cao kỹ năng quản lý sản xuất nói chung cho các doanh nghiệp là rất cần thiết để giúp họ tiếp cận dễ dàng hơn với các phương thức quản lý mới, bao gồm cả sản xuất sạch hơn.

Như vậy, ngoài việc tăng cường tuyên truyền, đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật, các cơ quan quản lý cần quan tâm đến các rào cản mang tính quản lý,từ đó có biện pháp khắc phục nhằm phổ biến thành công sản xuất sạch hơn tại Việt Nam, thực hiện mục tiêu của Chiến lược sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đến năm 2020.