1. Các ảnh hưởng từ phía doanh nghiệp:
Một là, nhu cầu liên kết với viện, trường của doanh nghiệp không cao do: thiếu những sức ép đòi hỏi doanh nghiệp tiến hành đổi mới công nghệ một cách mạnh mẽ, mặc dù trình độ công nghệ thấp, hoạt động đổi mới công nghệ chủ yếu là tập trung vào đi mua máy móc từ bên ngoài và rất ít chú ý đến nghiên cứu. Các doanh nghiệp chưa có tầm nhìn xa, mang tính chiến lược, do đó chưa có những kế hoạch đổi mới công nghệ dài hạn nhằm đạt được sự phát triển bền vững...
Thông qua kết quả điều tra các doanh nghiệp tại ba thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh, nhóm tác giả Vũ Minh Khương và Jonathan Haughton đã rút ra những kết luận quan trọng: Thứ nhất, trong khi coi trọng sự cộng tác chặt chẽ với các nhà cung cấp nước ngoài thì mối liên kết của các doanh nghiệp với viện, trường lại rất kém, và việc tăng cường mối liên kết này chưa được ưu tiên cao. Thứ hai, nhìn chung các doanh nghiệp đề cao những hoạt động như sử dụng máy vi tính, thư điện tử... hơn là liên kết với viện, trường để đổi mới công nghệ. Đó cũng có thể coi là tình hình chung của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Có ý kiến cho rằng, chúng ta đang đi ngược với cách tiếp cận Hệ thống đổi mới quốc gia là cơ quan nghiên cứu và phát triển (NC&PT) lại thay doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm của đổi mới, gắn kết NC&PT với hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hai là, khả năng liên kết với viện, trường của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế do chi cho NC&PT của các doanh nghiệp còn thấp; thiếu bộ phận NC&PT trong các doanh nghiệp; nguồn nhân lực có khả năng nghiên cứu trong các doanh nghiệp còn nhỏ bé; trình độ KH&CN của các giám đốc doanh nghiệp còn thấp.
Ba là, hạn chế liên quan tới bảo mật của doanh nghiệp. Do phải giữ bí quyết kinh doanh, do chưa thực sự tin tưởng đối tác và do tính kém hiệu lực của hệ thống luật pháp trong việc bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp, nên hiện tượng tồn tại khá phổ biến là các doanh nghiệp chủ động hạn chế mức độ chia sẻ thông tin cho người ngoài, kể cả các đối tác từ viện, trường.
2. Các ảnh hưởng từ phía viện, trường
Một là, nhu cầu và khả năng liên kết với doanh nghiệp của viện, trường không cao do:
- Sự bao cấp kéo dài và đầu tư dàn trải đối với các tổ chức KH&CN đã không tạo động lực thực sự để các nhà KH&CN hướng các hoạt động nghiên cứu sáng tạo của mình vào phục vụ yêu cầu của thị trường.
- Sản phẩm KH&CN vừa ít về số lượng, vừa kém về chất lượng,... Nhiều cơ sở nghiên cứu chỉ có sản phẩm trong phòng thí nghiệm hoặc dừng lại ở ý tưởng, chưa có thiết kế cụ thể để triển khai...
- Năng lực nghiên cứu của các viện, trường còn hạn chế. Lực lượng nghiên cứu không chỉ bất cập về kiến thức KH&CN hiện đại, thiếu những nhà khoa học đầu đàn mà còn đang có xu hướng lão hoá. Trang thiết bị vừa thiếu vừa lạc hậu và đang bị xuống cấp.
Hai là, hạn chế liên quan tới vấn đề hàng rào chức năng và phi chức năng. Bên cạnh xu hướng thoát ly nhu cầu sản xuất, viện, trường còn có xu hướng đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, dẫn tới giảm sút nhu cầu và khả năng liên kết với doanh nghiệp.
3. Các ảnh hưởng từ phía Nhà nước
Một là, ngoài những chính sách còn mang tính chất bảo hộ bất hợp lý, nhiều đặc quyền... khiến viện, trường và doanh nghiệp vẫn còn tư tưởng ỷ lại, không tích cực tìm đến với nhau,... ảnh hưởng của Nhà nước còn tỏ ra thiếu hiệu quả trong các chính sách liên quan tới khuyến khích đổi mới công nghệ (như: Quyết định số 324/1998/QĐ-NHNN1 ngày 30/9/1998 ban hành Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng; Nghị định 119/1999/NĐ-CP ngày 18/9/1999 về một số chính sách và cơ chế tài chính khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các hoạt động KH&CN;...).
Hai là, còn thiếu sự đảm bảo từ phía Nhà nước để quan hệ hợp tác về KH&CN nói chung diễn ra thuận lợi và suôn sẻ. Cụ thể, thiếu các quy định pháp quy và việc thực thi các quy định về hợp đồng liên kết KH&CN, sở hữu trí tuệ, xử lý các vi phạm,...
Ba là, mức độ ưu tiên cho hỗ trợ liên kết giữa viện, trường với doanh nghiệp ở các chính quyền địa phương chưa cao.
Bốn là, Nhà nước đã có các chương trình chính sách hỗ trợ liên kết (thông qua Nghị định số 119/1999/NĐ-CP của Chính phủ, Quy định tạm thời về xây dựng và quản lý dự án sản xuất thử nghiệm trong hoạt động nghiên cứu triển khai và phát triển công nghệ số 2766/KH ngày 30/11/1996 của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Quyết định số 54/1998/QĐTTg ngày 3/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình Kỹ thuật - Kinh tế), tuy nhiên các chính sách đó vẫn còn nhiều hạn chế.
Như vậy, để thúc đẩy mối liên kết giữa viện, trường và doanh nghiệp, cần phải tích cực tháo bỏ các trở ngại trên với sự cam kết từ nhiều phía: doanh nghiệp, viện và trường và Nhà nước.