TÓM TẮT:

Trong bối cảnh Việt Nam chuyển đổi mạnh sang mô hình phát triển dựa trên nền tảng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số thì ngành Bất động sản với dư địa lớn, có thể đóng góp nhiều hơn, đóng vai trò là một trong những ngành kinh tế trụ cột. Bài viết này phân tích và đánh giá toàn diện thực trạng phát triển ngành Bất động sản Việt Nam hiện nay, đồng thời đề ra các giải pháp cơ bản để ngành có được động lực phát triển mới, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng hai con số và phát triển nhanh, bền vững của đất nước.

Từ khóa: ngành Bất động sản, động lực tăng trưởng, giải pháp phát triển.

1. Vai trò của ngành Bất động sản

Ngành Bất động sản có vai trò quan trọng về kinh tế, xã hội, chiếm tỷ trọng lớn trong GDP, thu ngân sách nhà nước; thúc đẩy phát triển đô thị và nông thôn, công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thị trường bất động sản có quan hệ chặt chẽ với các thị trường, ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế. Các giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội đều chứng kiến sự phát triển của thị trường bất động sản. 

Ngành Bất động sản phát triển tạo điều kiện để mở rộng sản xuất, dịch vụ, thu hút FDI... Theo Cục Thống kê, bất động sản xếp thứ 11/20 ngành kinh tế cấp 1 về quy mô; chiếm khoảng 3,5% GDP, nếu tính tác động gián tiếp đến khoảng 40 ngành nghề kinh tế khác thì chiếm 7,62% GDP, đóng góp khoảng 4,5% thu ngân sách nhà nước.

Giai đoạn tới, ngành Bất động sản tiếp tục đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển đất nước. Theo Chiến lược Phát triển ngành Xây dựng đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 đặt ra mục tiêu năm 2030 đạt tỷ lệ đô thị hóa trên 50%, số lượng đô thị khoảng 1.000 - 1.200 đô thị, diện tích nhà ở bình quân đầu người đạt khoảng 30 m2 sàn/người. Ngoài ra, Chính phủ đang triển khai Đề án xây dựng 1 triệu căn nhà ở xã hội và hỗ trợ nhà ở cho 350.000 hộ nghèo.

Những mục tiêu trên cho thấy tầm quan trọng, sự cần thiết của ngành Bất động sản và cũng là dư địa cho ngành Bất động sản tiếp tục phát triển, khẳng định vị thế là một ngành kinh tế trụ cột, có sức lan tỏa, góp phần tạo nền tảng vững chắc cho phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn mới. 

2. Thực trạng phát triển ngành Bất động sản ở Việt Nam

Sau hơn 30 năm phát triển, tính từ khi có Luật Đất đai 1993 và Pháp lệnh Nhà ở, những khuôn khổ pháp lý ban đầu, ngành Bất động sản đã trở thành động lực quan trọng cho nền kinh tế; cung cấp nhà ở, phát triển hạ tầng, thúc đẩy đô thị hoá. Một số kết quả nổi bật của ngành Bất động sản ở Việt Nam trong thời gian qua như sau:

Về quy mô, theo nghiên cứu của Hiệp hội Bất động sản Việt Nam, năm 2025 dự kiến tỷ trọng bất động sản trên tổng tài sản toàn nền kinh tế là 21,2%, đến năm 2030 là 22%; giá trị toàn ngành năm 2025 chiếm 9,72% GDP, đến năm 2030 chiếm 13,6% GDP. Quy mô thị trường bất động sản ngày càng tăng, 10 năm qua, trung bình mỗi năm có thêm 60 triệu m2 nhà ở. Bất động sản là một kênh đầu tư hấp dẫn, thu hút được lượng vốn lớn. Đến hết năm 2024, số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bất động sản trên 30.000 doanh nghiệp.

Về năng lực cạnh tranh, ngành Bất động sản đã có nhiều đổi mới, đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ; nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ; tăng cường năng lực quản lý, khai thác hiệu quả. Việc khai thác, sử dụng các nguồn lực đất đai được cải thiện cơ bản; đổi mới sáng tạo, nâng cao giá trị gia tăng chuyển biến mạnh mẽ, mô hình tăng trưởng mới được cải thiện rõ rệt; đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, góp phần thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Về cơ chế, chính sách, hàng loạt chính sách, pháp luật được bổ sung, hoàn thiện tạo khung pháp lý thuận lợi hơn cho ngành Bất động sản. Chính sách sử dụng đất được cải tiến, cập nhật; pháp lý về chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê quyền sử dụng được hoàn thiện hơn; quản lý nhà nước ngày càng chuyên nghiệp; chính sách thuế khắc phục bước đầu tình trạng sử dụng đất manh mún, phân bổ tốt hơn nguồn lực; cơ chế đấu giá, giao đất, nghĩa vụ tài chính sát với thực tế hơn, hạn chế tiêu cực; định giá đất, giá thuê, tiền sử dụng đất, các loại phí, lệ phí hợp lý hơn.

3. Những vấn đề tồn tại của ngành Bất động sản

Tuy đã có sự phát triển trên nhiều khía cạnh nhưng ngành Bất động sản còn những tồn tại, bất cập, nếu không được xử lý triệt để sẽ tác động tiêu cực đến nền kinh tế, đến sự phát triển bền vững của đất nước. Cụ thể như sau:

(1). Về cung - cầu và cơ cấu sản phẩm

Tình trạng mất cân đối cung - cầu rất lớn, kéo dài, nguồn cầu tăng cao phát sinh từ sự phát triển kinh tế - xã hội và quá trình đô thị hóa nhưng nguồn cung hạn chế. Vướng mắc pháp lý, doanh nghiệp bất động sản năng lực yếu… dẫn đến việc triển khai chậm, kém hiệu quả, hạn chế cung ứng sản phẩm cho thị trường.

Cơ cấu sản phẩm không hợp lý, trong đó sản phẩm bất động sản chủ yếu thuộc phân khúc cao cấp và dành cho đầu tư tài chính, trong khi thiếu sản phẩm phù hợp với nhu cầu của đại bộ phận người dân có nhu cầu lớn. Số lượng nhà ở cao cấp chiếm tỷ trọng lớn, nhưng số lượng nhà ở giá rẻ, nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân lại thiếu hụt nghiêm trọng.

Giá bất động sản có xu hướng tăng liên tục, không tương xứng với giá trị thật, vượt xa thu nhập của người dân. Theo các công ty nghiên cứu thị trường, giá nhà ở tăng trưởng bình quân hai chữ số mỗi năm trong suốt thập kỷ qua.

Việc xây dựng lại chung cư cũ còn chậm do thiếu chính sách phù hợp, nhiều khó khăn, vướng mắc, nhất là sự đồng thuận về bồi thường, đền bù, vấn đề quy hoạch…, trong khi vai trò điều tiết của nhà nước chưa thể hiện rõ. Theo Bộ Xây dựng, cả nước hiện có khoảng 2.500 chung cư cũ xuống cấp nghiêm trọng, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn.

(2). Về pháp luật và quản lý

Hệ thống pháp luật liên quan đến đất đai, đầu tư, xây dựng, kinh doanh bất động sản còn nhiều bất cập. Quy định còn chồng chéo, chưa thống nhất, chưa đồng bộ; chưa phù hợp với thực tế, chưa rõ ràng, thiếu cụ thể, chi tiết dẫn đến không thống nhất trong quá trình tổ chức thực hiện.

Có sự mâu thuẫn, thiếu thống nhất giữa các quy hoạch, nhất là quy hoạch đô thị và quy hoạch sử dụng đất; còn thiếu tính đồng bộ đối với các quy hoạch ngành, lĩnh vực khác. Chất lượng quy hoạch chưa cao, thiếu tính dài hạn, quy trình điều chỉnh quy hoạch phức tạp… gây khó khăn cho phát triển bất động sản.

Các loại hình bất động sản mới có nhiều vướng mắc pháp lý, thiếu quy định rõ ràng, gây khó khăn trong quản lý, phát sinh hệ lụy. Các loại hình mới như căn hộ khách sạn (condotel) đã xuất hiện cả chục năm, có số lượng lớn; loại hình homestay tạo sản phẩm du lịch hấp dẫn, một số loại hình mới (Famstay, EcoStay, Gardestay…) vẫn chưa được được pháp luật điều chỉnh kịp thời, đầy đủ. 

Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu thị trường bất động sản, nhà ở chưa đầy đủ, thiếu thống nhất, không bảo đảm công khai, minh bạch. Sự khác nhau về số liệu trong các công bố, báo cáo thị trường gây nhiễu loạn; chưa có quy định cụ thể về công bố thông tin. Theo xếp hạng tính minh bạch thị trường địa ốc toàn cầu năm 2024 của Jones Lang Lasalle, Việt Nam xếp 49/89 quốc gia, vùng lãnh thổ.

3. Về năng lực cạnh tranh

Đến nay, ngành Bất động sản đã hình thành được một số doanh nghiệp, tập đoàn lớn, có năng lực cạnh tranh cao, đủ năng lực triển khai các dự án lớn. Tuy nhiên, năng lực của ngành Bất động sản nói chung còn nhiều hạn chế, điểm yếu.

Tiềm lực của doanh nghiệp bất động sản còn yếu; đa số là doanh nghiệp quy mô nhỏ, trong khi đó đầu tư các dự án bất động sản cần có nguồn lực lớn. Doanh nghiệp bất động sản trong nước yếu kém so các nhà đầu tư bất động sản nước ngoài về trình độ, năng lực, tài chính, kinh nghiệm; phát triển chạy theo thị trường, không chú trọng chiến lược dài hạn.

Năng lực quản lý, trình độ của các doanh nghiệp bất động sản còn hạn chế, nhất là về thiết kế, quản lý, vận hành, đầu tư, dịch vụ còn kém. Sản phẩm chưa đa dạng, chất lượng còn hạn chế; thiếu sản phẩm bất động sản thông minh.

Hệ thống quản trị, điều hành còn yếu kém, hạn chế tính minh bạch; đánh giá, quản trị rủi ro yếu, dễ bị ảnh hưởng bởi biến động chính sách, tài chính, thị trường. Ứng dụng công nghệ hạn chế, chưa chú trọng đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, dẫn đến hạn chế khả năng đổi mới sản phẩm, dịch vụ đột phá, tối ưu hóa hiệu suất, chất lượng, năng lực cạnh tranh.

Nguồn nhân lực còn yếu, còn tồn tại một số lượng lớn nhân sự chất lượng không cao, thiếu chuyên nghiệp, trong khi đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường, doanh nghiệp.

4. Về nguồn vốn, kiểm soát đầu tư

Bất động sản là một ngành kinh tế - kỹ thuật lớn, nhu cầu sử dụng nguồn lực đầu tư toàn xã hội rất lớn, đồng thời cần thiết phải quản trị tốt, nâng cao hiệu quả, tác động tích cực đến kinh tế, xã hội. Thực tế thời gian qua, cơ cấu nguồn vốn và kiểm soát đầu tư trong ngành Bất động sản đang tạo ra những nguy cơ, rủi ro.

Chưa có nhiều kênh huy động nguồn vốn dài hạn; cơ cấu nguồn vốn còn bất hợp lý, chủ yếu từ nguồn tín dụng, trái phiếu doanh nghiệp và tiền ứng trước của khách hàng, trong khi vốn chủ đầu tư rất thấp. Dư nợ tín dụng lĩnh vực bất động sản chiếm tỷ trọng từ 18 - 21% tổng dư nợ tín dụng cả nền kinh tế.

Trái phiếu bất động sản chiếm từ 20 - 30% tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp phát hành nhưng tiềm ẩn rủi ro cao; doanh nghiệp tài chính yếu nhưng vẫn phát hành trái phiếu giá trị lớn; không có tài sản bảo đảm hoặc bảo đảm bằng cổ phiếu, tiềm ẩn rủi ro; cung cấp thông tin không đầy đủ, chính xác cho nhà đầu tư.

Việc kiểm soát dòng vốn đầu tư vào lĩnh vực bất động sản còn thiếu chặt chẽ, tiềm ẩn rủi ro, kích thích đầu cơ bất động sản. Một số chủ đầu tư, nhà môi giới tìm cách tăng giá đột biến, tạo “sốt ảo” ở một số dự án, chạy theo lợi nhuận nhất thời, làm mất niềm tin của khách hàng.

5. Quan điểm, định hướng

Các mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đặt ra những yêu cầu đối với sự phát triển ngành Bất động sản, qua đó đẩy nhanh tốc độ, nâng cao chất lượng đô thị hoá, hình thành kết cấu hạ tầng kỹ thuật, kinh tế, xã hội thiết yếu đồng bộ, hiện đại; thúc đẩy kinh tế khu vực đô thị tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững, nâng cao chất lượng sống tại đô thị.

Nghị quyết số 06-NQ/TW của Bộ Chính trị “Về quy hoạch xây dựng quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045” xác định, đô thị hóa là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững và đề ra mục tiêu hình thành một số đô thị, chuỗi đô thị động lực. Chiến lược Phát triển nhà ở quốc gia giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nêu rõ, phát triển nhà ở là một nội dung quan trọng của chính sách kinh tế - xã hội và đề ra yêu cầu phát triển thị trường bất động sản bền vững, minh bạch dưới sự điều tiết, giám sát của Nhà nước, hạn chế tình trạng đầu cơ, lãng phí tài nguyên đất trong phát triển nhà ở.

Trước yêu cầu của chiến lược phát triển đất nước giai đoạn mới, cũng như khắc phục những tồn tại, bất cập của giai đoạn trước, ngành Bất động sản cần phát triển theo các định hướng mới, ổn định, bền vững và hiệu quả hơn.

Trong điều kiện thách thức của biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường gia tăng, bất động sản xanh là xu hướng tất yếu, có nhiều lợi ích về kinh tế, xã hội, tiết kiệm chi phí quản lý, vận hành (giảm 20% - 30% so với công trình thông thường). Bất động sản xanh có giá trị thương hiệu, được định giá tài sản cao hơn và giữ giá ổn định hơn bất động sản thông thường. Theo Bộ Xây dựng, đến năm 2024, cả nước có hơn 400 dự án xanh, vượt xa mục tiêu đề ra là có 80 dự án vào năm 2025, cho thấy bất động sản xanh có động lực phát triển mạnh mẽ.

Ngành Bất động sản đi đầu trong tận dụng thành quả của Cách mạng công nghệ 4.0, thúc đẩy hơn nữa việc ứng dụng, tích hợp khoa học công nghệ, công nghệ số, phát triển mạnh mô hình thành phố thông minh, đô thị thông minh, nhà thông minh. Việt Nam được đánh giá có cơ hội lớn phát triển đô thị thông minh; bất động sản thông minh là xu hướng dẫn dắt thị trường, tốc độ tăng trưởng có thể đạt 20 - 30%/năm. 

Đề cao các yếu tố văn hóa, xã hội trong phát triển bất động sản, góp phần xây dựng cộng đồng đa dạng, năng động, bình đẳng, mở rộng tiếp cận các dịch vụ thiết yếu, thúc đẩy thương hiệu và giá trị bền vững, xây dựng môi trường đô thị tốt đẹp hơn. Theo đó, việc đo lường giá trị xã hội thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn vào các dự án bất động sản mang lại lợi ích cho cộng đồng.

6. Các định hướng phát triển

Trên cơ sở định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, phát huy tiềm năng, lợi thế của đất nước, khắc phục những tồn tại, hạn chế phát triển, ngành Bất động sản cần tập trung vào một số định hướng chính.

Thứ nhất, phát triển nhà ở thương mại theo dự án phải gắn với phát triển đô thị, chương trình phát triển nhà ở, khuyến khích đầu tư phát triển nhà ở chung cư cao tầng hiện đại, thân thiện với môi trường, đảm bảo kết nối và đồng bộ hệ thống hạ tầng, có diện tích và giá cả hợp lý.

Thứ hai, đẩy mạnh phát triển nhà ở xã hội, nhà ở cho người thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp. Đa dạng hóa nguồn cung nhà ở xã hội, khuyến khích phát triển nhà ở cho thuê. Giải quyết chỗ ở cho công nhân gắn với khu vực sản xuất, bảo đảm đồng bộ hạ tầng kỹ thuật, thiết chế giáo dục, văn hóa, y tế.

Thứ ba, tập trung cải tạo, xây dựng lại các chung cư cũ, đảm bảo tính mạng, tài sản, nâng cao chất lượng sống của người dân, hướng tới phát triển đô thị xanh, văn minh hiện đại, bền vững, gắn với cải tạo, chỉnh trang đô thị, phù hợp với các loại quy hoạch.

Thứ tư, phát triển bất động sản công nghiệp đồng bộ, hiện đại, sẵn sàng đón dòng vốn FDI, góp phần gia tăng vai trò, vị thế của Việt Nam trong chuỗi cung và hệ thống sản xuất toàn cầu. Cả nước hiện có 301/443 KCN đã hoạt động, tỷ lệ lấp đầy từ 83-92%, cho thấy tiệm cận giới hạn nguồn cung bất động sản công nghiệp.

Thứ năm, cơ cấu lại bất động sản du lịch theo hướng đa dạng hóa sản phẩm, chất lượng cao, phát triển bền vững và công nghệ tiên tiến, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường và chiến lược phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn; mang lại giá trị gia tăng và sự hấp dẫn mới cho du lịch Việt Nam.

7. Các nhóm giải pháp

Sự ổn định dài hạn của ngành Bất động sản quan hệ trực tiếp đến ổn định kinh tế, xã hội, do đó cần phát triển nhanh và bền vững ngành Bất động sản với tư duy và cách thức mới; khẳng định vai trò là một trụ cột kinh tế, có sức lan tỏa mạnh mẽ, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới. Sau đây là một số nhóm giải pháp phát triển ngành Bất động sản.

(1) Về hoàn thiện thể chế, chính sách

- Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai, đầu tư, quy hoạch, đô thị, kiến trúc, xây dựng…, bảo đảm đồng bộ, minh bạch, thống nhất, loại bỏ các mâu thuẫn, chồng chéo. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cải cách thủ tục hành chính đầu tư phát triển nhà ở, bất động sản; cắt giảm, đơn giản hóa, chuẩn hóa, đẩy mạnh chuyển đổi số thủ tục hành chính.

- Bổ sung chính sách khuyến khích phát triển nhà ở thương mại, nhà ở xã hội, nhà tái định cư, nhà ở theo chương trình mục tiêu, nhà ở riêng lẻ, xây dựng lại nhà chung cư cũ, xóa nhà tạm, nhà dột nát. Tạo hành lang pháp lý, cơ chế khuyến khích phát triển các quỹ phát triển nhà ở, bất động sản; thu hút nguồn lực xã hội đầu tư xây dựng đô thị, bất động sản, cải tạo, chỉnh trang đô thị.

- Hoàn thiện quy chuẩn, tiêu chuẩn về đô thị, nhà ở, bất động sản; tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm. Chú trọng nâng cao tiêu chuẩn phòng, chống thiên tai, cháy, nổ, bảo vệ môi trường. Nghiên cứu mô hình phát triển đô thị bền vững, phù hợp cho từng vùng, miền, địa bàn.

(2) Về nâng cao năng lực

- Đổi mới toàn diện công tác quy hoạch theo hướng tiếp cận đa ngành, toàn diện, dài hạn, có tính chiến lược, tôn trọng quy luật thị trường, bảo đảm tính thống nhất, tích hợp, đi đôi với kiểm soát quy hoạch và nguồn lực thực hiện. Hạ tầng kỹ thuật đồng bộ với hạ tầng xã hội, văn hóa. Tăng cường công khai, minh bạch trong quá trình lựa chọn nhà đầu tư thông qua đấu giá, đấu thầu.

- Đổi mới, cải tiến sản phẩm, dịch vụ, tối ưu hóa quy trình quản lý, áp dụng công nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh. Nâng cao năng lực thực hiện dự án, hạn chế tình trạng chậm tiến độ, kéo dài, bỏ hoang dự án; bổ sung quy định về điều kiện, bảo đảm nhà đầu tư đủ năng lực, kinh nghiệm. Tăng cường giám sát, các chế tài thực hiện đúng cam kết trong triển khai dự án.

- Chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản, đào tạo bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ lĩnh vực phát triển đô thị, nhà ở, kinh doanh bất động sản. Nâng cấp các cơ sở đào tạo liên quan bất động sản theo hướng bài bản, sát với thực tế thị trường và nhu cầu của doanh nghiệp.

(3) Về phát triển thị trường

- Khắc phục tồn tại, hạn chế, xây dựng thị trường bất động sản, nhà ở, dự án đồng bộ, hiệu quả, thông suốt; khơi thông nguồn cung, hỗ trợ thị trường bất động sản phát triển theo hướng an toàn, lành mạnh, bền vững; thúc đẩy sự tham gia của nhiều thành phần, tổ chức, cá nhân.

- Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản và nhà ở; tăng cường kiểm tra, xử lý vi phạm. Nâng cao năng lực phản ứng chính sách để điều tiết, bảo đảm của thị trường bất động sản ổn định, lành mạnh.

- Tăng cường kiểm soát các sàn giao dịch bất động sản, bảo đảm công khai, minh bạch, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên, khuyến khích giao dịch bất động sản qua sàn. Quản lý chặt chẽ hoạt động môi giới bất động sản; chuẩn hóa việc đào tạo, sát hạch, cấp chứng chỉ đối với hành nghề môi giới bất động sản.

- Đẩy nhanh xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai, kết nối với các cơ sở dữ liệu liên quan, hướng tới thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực đất đai làm nền tảng nâng cao khả năng định giá chính xác cho các bên thị trường.

(4) Về tài chính, nguồn vốn, thuế

-  Đa dạng hóa nguồn vốn cho bất động sản, giảm bớt tỷ trọng nguồn vốn từ tín dụng, chú trọng huy động vốn từ các kênh trái phiếu, cổ đông, cổ phiếu, quỹ đầu tư…; huy động hiệu quả nguồn vốn nước ngoài thông qua các quỹ đầu tư, quỹ tín thác bất động sản, liên doanh, liên kết.

- Huy động vốn đầu tư các đô thị lớn; cơ chế tạo nguồn thu, phân cấp ngân sách để lại cho các đô thị được nâng loại đô thị. Hoàn thiện chính sách thuế, phí liên quan đến bất động sản nhằm khuyến khích sử dụng có hiệu quả, hạn chế đầu cơ; quản lý, kiểm soát, khai thác, sử dụng hiệu quả giá trị gia tăng từ đất, quỹ đất mới sau khi hạ tầng được đầu tư mở rộng.

- Huy động nguồn vốn xã hội hóa để phát triển nhà ở thông qua nhiều hình thức, tạo lập hệ thống tài chính nhà ở vận hành ổn định, dài hạn và giảm phụ thuộc vào ngân sách nhà nước. Có chính sách ưu đãi đối với phát triển nhà ở xã hội, nhà ở cho người thu nhập thấp.

(5) Về phát triển sản phẩm

- Đẩy mạnh cơ cấu lại sản phẩm phù hợp hơn, thúc đẩy thị trường phát triển thực chất. Phân khúc bình dân tập trung vào nhà ở xã hội, nhà thu nhập thấp, nhà cho thuê; nhà thương mại tập trung vào chung cư có diện tích và giá phù hợp hơn; bất động sản du lịch tập trung hoàn thiện pháp lý, tạo động lực phát triển; bất động sản công nghiệp tăng nguồn cung đón làn sóng đầu tư mới.

- Quản lý chặt chẽ việc phát triển nhà ở cao tầng tại trung tâm đô thị lớn. Ưu tiên phát triển bất động sản ở đô thị nhỏ, vùng ven, thúc đẩy liên kết đô thị - nông thôn. Phát triển các đô thị có giá trị về di sản, du lịch, biển, hải đảo; các khu đô thị có vị trí, chức năng nổi trội về giáo dục, sáng tạo, cửa khẩu, cảng, sân bay...; bảo đảm ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai.

- Khuyến khích hợp tác, đổi mới sáng tạo trong phát triển sản phẩm; tăng cường ứng dụng kỹ thuật, công nghệ xây dựng mới, vật liệu mới, sử dụng hiệu quả năng lượng, phát thải thấp. Đồng bộ hạ tầng xã hội với phát triển đô thị, bất động sản, nhất là các thiết chế giáo dục, văn hóa, thể thao; ưu đãi đặc biệt đối với các dự án cung cấp dịch vụ xã hội đô thị.

Với nhiều tiềm năng, dư địa lớn và được thúc đẩy bởi động lực từ nền tảng kinh tế vĩ mô tích cực, xu hướng tích lũy tài sản bằng bất động sản, dự báo trong giai đoạn tới, ngành Bất động sản sẽ có sự phát triển mạnh mẽ, lành mạnh, hiệu quả hơn. Phát triển nhanh và bền vững ngành Bất động sản với tư duy và cách thức mới sẽ huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực; thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sự phát triển các ngành, lĩnh vực; nâng cao đời sống người dân và tiến bộ xã hội, góp phần thực hiện thành công "kỷ nguyên vươn mình" của đất nước./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Bộ Chính trị, (2022). Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/1/2022 “Về quy hoạch xây dựng quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045”.

Quốc hội khóa 15, (2023). Nghị quyết số 161/2024/QH15, ngày 23 tháng 11 năm 2023 về tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội.

Đoàn Giám sát Quốc hội khóa 15, (2024). Báo cáo tóm tắt kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội từ năm 2015 đến hết năm 2023”.

Thủ tướng Chính phủ, (2021). Quyết định số 2161/QĐ-TTg, ngày 22 tháng 12 năm 2021 phê duyệt Chiến lược Phát triển nhà ở quốc gia giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Thủ tướng Chính phủ, (2024). Quyết định số 179/QĐ-TTg, ngày 16 tháng 02 năm 2024 phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Xây dựng đến năm 2030, định hướng đến năm 2045.

Bộ Xây dựng, (2025). Báo cáo thông tin về nhà ở và thị trường bất động sản năm 2021, 2022, 2023, 2024.

Enhancing the development of Vietnam’s real estate industry: Current issues and solutions

Tran Thi Hoa Ly

Electric Power University

Abstract:

As Vietnam accelerates its transition toward a development model driven by science, technology, innovation, and digital transformation, the real estate industry holds significant potential to contribute more meaningfully as a key pillar of the national economy. This paper provides a comprehensive analysis of the current state of Vietnam's real estate sector, identifying existing opportunities and constraints. Based on this evaluation, the study proposes a set of strategic solutions aimed at fostering new growth drivers within the industry. These recommendations are designed to support Vietnam’s pursuit of double-digit economic growth and promote a trajectory of rapid and sustainable national development.

Keywords: real estate industry, growth drivers, development solutions.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 16 năm 2025]