1. Lý luận chung về phân tích SWOT

Trong tư duy và vận dụng tiến trình chiến lược của doanh nghiệp (ngành), mô hình có tính phổ biến là cách tiếp cận ba giai đoạn:

Thứ nhất, hoạch định chiến lược với các công việc cụ thể như xác định mục tiêu, nhiệm vụ; phân tích và dự báo chiến lược, trong đó nội dung quan trọng là kết hợp giữa phân tích bên trong và bên ngoài. Nội dung này được thể hiện qua ma trận SWOT.

Ma trận SWOT là ma trận kết hợp giữa phân tích và dự báo bên trong với bên ngoài. Ma trận này không đưa ra những mô hình chiến lược cụ thể, nhưng nó có tác dụng nêu ra những định hướng chiến lược rất quan trọng với doanh nghiệp, ngành hoặc lĩnh vực. Cách xây dựng ma trận thuận chiều với tiếp cận từ bên trong, có nghĩa là điểm khởi đầu của ma trận sẽ được bắt đầu bằng S (điểm mạnh) và W (điểm yếu), rồi mới đến các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài, cụ thể là O (thời cơ) và T (đe doạ). Qua đó chúng ta có 4 cặp kết hợp từng đôi một như sau: S và O, S và T;W và O, W và T. Đây là cách kết hợp thuần tuý của các yếu tố bên trong và bên ngoài. Hơn nữa, trong mỗi cách kết hợp lại bắt đầu bằng điểm mạnh trước, điểm yếu sau đối với các yếu tố bên trong, còn với các yếu tố môi trường bên ngoài thì lại là cơ hội trước và đe doạ sau. Cách tiếp cận này là rất lạc quan.

 Lý luận và thực tiễn cũng còn có sự kết hợp phức tạp hơn, có nghĩa là không dừng lại ở một cặp chỉ gồm 2 yếu tố mà có thể 3, 4 yếu tố.

 Ngược lại với cách tư duy thuận chiều trên là cách tiếp cận ngược chiều của ma trận kết hợp phân tích và phán đoán bên ngoài và bên trong. Khi đó, ma trận này sẽ được đảo lại là TOWS. Đây là cách tiếp cận ngược và có tính logíc hơn đối với thực tiễn kinh doanh. Bởi vì, bản chất rất quan trọng của chiến lược phát triển là tạo ra lợi thế cạnh tranh, giành vị thế trên thị trường so với đối thủ cạnh tranh. Xuất phát từ ý tưởng đó, cách tư duy ngược chiều này có tính thuyết phục hơn đối với các nhà thực hành chiến lược. Theo đó, ma trận sẽ được bắt đầu bằng môi trường bên ngoài trước và đi từ thách thức, đe doạ trước rồi mới đến thời cơ, tức là cặp kết hợp TO; tiếp đến mới là các kết hợp của các yếu tố bên trong WS. Với sự kết hợp này cũng sẽ bắt đầu bằng điểm yếu trước rồi mới đến điểm mạnh sau.

 Ma trận TOWS là cách tiếp cận ngược và thực tiễn hơn trong kinh doanh, nhưng chúng ta không tuyệt đối hoá nó để thậm chí phủ định cách tiếp cận của ma trận SWOT, một cách tiếp cận truyền thống đã được nghiên cứu và vận dụng từ lâu. Bởi lẽ, không có thời cơ và nguy cơ tuyệt đối, hay nói cách khác, thời cơ có thể biến thành nguy cơ, đe doạ nếu doanh nghiệp không tận dụng được nó và ngược lại, từ nguy cơ có thể chuyển thành cơ hội nếu doanh nghiệp có những đối sách hợp lý.

 Thứ hai,tổ chức thực hiện chiến lược;

Thứ ba, đánh giá, kiểm tra và điều chỉnh chiến lược hợp lý.

Như vậy, thực chất của ma trận SWOT hoặc ma trận ngược là ma trận TOWS  nêu trên chính là triết lý “biết mình, biết người” để trăm trận trăm thắng được vận dụng cả trong lĩnh vực quân sự và trong kinh doanh.

2.Vận dụng phân tích SWOT đối với công nghiệp chế biến rau quả ở Việt Nam trong quá trình hội nhập

Nhằm đưa ra những định hướng chiến lược cho công nghiệp chế biến rau quả, chúng ta vận dụng phân tích ma trận SWOT, cụ thể như sau:

Những điểm mạnh:

- Việt Nam với điều kiện thuận lợi về đất đai và khí hậu (nhiệt đới ở phía Nam và á nhiệt đới ở phía Bắc) với nhiều chủng loại rau quả đặc trưng, có lợi thế so sánh với các nước trong khu vực và trên thế giới;

- Nhiều sản phẩm rau quả chế biến được sản xuất trên dây chuyền công nghệ hiện đại, chất lượng và kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm ngày một nâng cao;

-Tốc độ phát triển của ngành hàng này rất nhanh, đặc biệt ở những vùng trọng điểm: Đông Nam Bộ, Đồng bằng Sông Cửu Long và Tây Nguyên;

Những điểm yếu:

-Công nghệ trồng, thu hoạch, bảo quản và chế biến rau quả còn rất lạc hậu. Hệ quả là, chất lượng rau quả thấp, mẫu mã không đẹp, quy cách không đồng đều, khối lượng nhiều, nhưng tỷ lệ hàng hoá còn thấp;

-Tỷ lệ hao hụt trong khâu thu hoạch và bảo quản vẫn còn cao, dẫn đến giá thành rau quả chế biến cao;

- Thiếu chiến lược xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực, chủng loại hàng còn dàn trải. Chưa có đầu tư toàn diện cho phát triển sản xuất và xuất khẩu rau quả chế biến;

- Tổ chức liên kết trong sản xuất, kinh doanh rau quả chưa bảo đảm tạo ra sức mạnh tổng hợp cũng như chưa bảo đảm mối liên hệ sản xuất giữa các ngành, các khâu trong phát triển chế biến rau quả;

- Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh rau quả còn chưa hiểu biết nhiều về nhu cầu thị trường, đặc biệt là thị trường nước ngoài. Thị trường trong nước còn chưa được quan tâm đúng mức, nhất là nhóm mặt hàng đã qua chế biến.

Những cơ hội:

-  Việt Nam đã tham gia vào các tổ chức hợp tác khu vực và thế giới như  ASEAN, APEC, Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ và đang tích cực các vòng đàm phán để gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO);

- Nhu cầu trái cây của thị trường thế giới, đặc biệt là thị trường Mỹ, EU còn rất lớn và có xu hướng tăng lên, trong đó có rau quả chế biến;

- Đối với thị trường nội địa, nhu cầu tiêu dùng rau quả ngày càng gia tăng cả về số lượng và những đòi hỏi cao về chất lượng. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc sử dụng các sản phẩm rau, quả chế biến cũng dần được người tiêu dùng chấp nhận thông qua hệ thống thương mại siêu thị đang phát triển mạnh ở các đô thị, các khu công nghiệp;

- Chính phủ có Chương trình phát triển rau, quả và hoa, cây cảnh thời kỳ 1999-2010 theo Quyết định số 182/1999/QĐ-TTg ngày 03/9/1999 của Thủ tướng Chính phủ; Bộ Thương mại, Bộ Công nghiệp và đặc biệt Bộ NN &PTNT đã và đang có những chính sách tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp;

Những nguy cơ:

- Tiêu chuẩn VSATTP đối với mặt hàng rau quả bao gồm rau tươi và đã qua chế biến ngày càng cao, khắt khe và phức tạp, đặc biệt là đối với thị trường nước ngoài.

- Nhiều đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất và chế biến rau quả trong khu vực và thế giới, đặc biệt là Trung Quốc, Mỹ... Vì vậy, sản phẩm Việt Nam phải cạnh tranh rất gay gắt ở những thị trường này;

- Những đối xử bất công của những nước công nghiệp phát triển với những nước đang phát triển trong trao đổi thương mại quốc tế. 

Từ những điểm mạnh, điểm yếu và cơ hội cũng như nguy cơ trên, chúng ta có một số định hướng cho ma trận SWOT như sau (xem bảng 1).

Bảng 1 đã đưa ra một số kết hợp thuần tuý từng cặp. Tuy nhiên, trong thực tiễn, đòi hỏi cần có sự kết hợp hơn một cặp thuần tuý đó. Theo đó một định hướng chiến lược phát triển công nghiệp chế biến rau quả là “ưu tiên cho đầu tư đổi mới công nghệ phù hợp, trên cơ sở tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, có sức cạnh tranh phù hợp với nhu cầu thị trường khu vực và thế giới trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”.

   Với tư duy ngược chiều của ma trận SWOT là ma trận TOWS, theo chúng tôi, một định hướng chiến lược cho ngành hàng chế biến rau quả là, lấy yêu cầu, tiêu chuẩn của thị trường xuất khẩu làm mục tiêu để phấn đấu trong quá trình hội nhập, từ đó đầu tư phát triển công nghệ chế biến phù hợp, khắc phục những yếu kém về sức cạnh tranh của sản phẩm rau quả chế biến trên cơ sở tận dụng những lợi thế về sản phẩm rau quả nhiệt đới.  

Từ định hướng chiến lược nêu trên, nhằm phát triển công nghiệp chế biến rau quả trong quá trình hội nhập, cần thực hiện một số biện pháp sau:

Một là, tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm rau quả đã qua chế biến. Đây được xem là điều cốt lõi để phát triển sản xuất;

Hai là, Bảo đảm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Một trong những vấn đề cần đặc biệt chú ý là giải quyết mối quan hệ giữa vùng nguyên liệu với các nhà máy chế biến. Có như vậy mới góp phần nâng cao hệ số sử dụng công suất của ngành công nghiệp chế biến rau quả, nâng cao hiệu quả đầu tư;

Ba là, tăng cường hơn nữa liên kết kinh tế. Cần nhấn mạnh tới việc vận dụng chuỗi cung ứng cũng như chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu nhằm đưa các doanh nghiệp của Việt Nam tham gia tốt hơn vào quá trình tạo ra ngày càng nhiều giá trị gia tăng, góp phần nâng cao sức cạnh tranh. Thực hiện giải pháp này trước hết là đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn, chẳng hạn như Tổng công ty Rau quả, Tổng công ty Nông sản Việt Nam