TÓM TẮT:
Trong bối cảnh Việt Nam đã tham gia và đang tiến hành đàm phán các hiệp định thương mại tự do, góp phần mở ra nhiều cơ hội cho Việt Nam thì việc cần hiểu rõ những nguyên tắc trong thực hiện pháp luật về chấp nhận đề nghị giao kết các hợp đồng thương mại rất quan trọng để các bên (là các công ty, doanh nghiệp) có thể thỏa thuận, thương lượng giao kết hợp đồng tự nguyện, bình đẳng, hợp tác, trung thực… theo đúng quy định của pháp luật, đặc biệt là các đề nghị giao kết hợp đồng với các bạn hàng quốc tế. Trước những nhu cầu muốn tìm hiểu rõ hơn về những nguyên tắc và quy định giao kết hợp đồng thương mại, bài viết này sẽ trình bày và phân tích về các đặc điểm pháp lý của hợp đồng thương mại, các nguyên tắc, nội dung, trình tự trong giao kết hợp đồng thương mại, để các cơ quan, công ty, doanh nghiệp tham khảo trước khi thực hiện giao kết hợp đồng thương mại.
Từ khóa: chấp đề nghị giao kết hợp đồng thương mại, nguyên tắc, pháp luật, Bộ luật Dân sự 2015, Luật Thương mại 2005.
1. Đặt vấn đề
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thương mại là quá trình thỏa thuận, thương lượng, theo đó các bên thực hiện sự bày tỏ và thống nhất ý chí nhằm hướng tới những lợi ích nhất định. Theo định nghĩa của Bộ Từ điển Luật học Black’s Law Dictionary: “Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng được hiểu là sự đồng ý của bên được đề nghị đối với các điều khoản của đề nghị giao kết hợp đồng của bên đề nghị, một cách rõ ràng hoặc ngầm định bằng hành vi, theo hình thức được thừa nhận hoặc theo yêu cầu của bên đề nghị, theo đó hợp đồng được xác lập và ràng buộc các bên. Nếu một chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng có sửa đổi các điều khoản hoặc bổ sung các điều khoản mới, nó thường là một đề nghị giao kết hợp đồng mới”.
Theo định nghĩa này, về bản chất, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự đồng ý của bên được đề nghị đối với đề nghị giao kết hợp đồng. Về hình thức, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng có thể dưới hình thức rõ ràng (bằng văn bản hoặc bằng lời nói) hoặc bằng hành vi cụ thể trong những trường hợp nhất định. Về nội dung, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng phải phù hợp với đề nghị giao kết hợp đồng. Một thông báo chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng có chứa đựng những sửa đổi, bổ sung so với đề nghị giao kết hợp đồng thường không được coi là chấp nhận mà là một đề nghị mới. Đây cũng là nhận thức được thừa nhận bởi nhiều công trình khoa học về luật hợp đồng, cũng như được ghi nhận tại nhiều đạo luật của các nước, các công ước và văn kiện có tính quốc tế về hợp đồng.
Pháp luật về hợp đồng của nhiều quốc gia quy định chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng phải là sự đồng ý toàn bộ đối với đề nghị giao kết hợp đồng. Một biểu thị trả lời chấp nhận đề nghị nhưng chứa đựng bất kỳ sự sửa đổi, bổ sung nào so với đề nghị giao kết hợp đồng được coi là từ chối và cấu thành một đề nghị mới.
Còn theo quy định của pháp luật Việt Nam, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự chấp nhận của bên được đề nghị với toàn bộ nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng mà không có bất kỳ ngoại lệ nào (Khoản 1, Điều 293, Bộ luật Dân sự năm 2015). Để tìm hiểu rõ hơn về pháp luật thực hiện chấp đề nghị giao kết hợp đồng thương mại, bài viết sẽ trình bày về khái quát và đặc điểm pháp lý của hợp đồng thương mại, các nguyên tắc trong giao kết hợp đồng thương mại, thủ tục giao kết hợp đồng và thời điểm chấp nhận giao kết hợp đồng thương mại đã được quy định tại Bộ luật Dân sự 2015. Đồng thời làm rõ thêm các quy định trong chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thương mại để các công ty, doanh nghiệp tham khảo.
2. Khái quát về hợp đồng thương mại
Hiện nay tại Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu toàn diện nào về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thương mại. Các nội dung nghiên cứu và cả các văn bản pháp luật Nhà nước cũng chưa xây dựng, cung cấp, hướng dẫn đầy đủ, chính xác, kịp thời về giao kết hợp đồng, đặc biệt đối với vấn đề chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thương mại theo Bộ luật Dân sự 2015 của Việt Nam hiện nay. Các văn bản pháp luật Việt Nam cũng chưa đưa ra bất kỳ một khái niệm nào về giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, có thể hiểu hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận giữa thương nhân với thương nhân, thương nhân với các bên có liên quan nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ giữa các bên trong hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại và xúc tiến thương mại. Ví dụ về hợp đồng thương mại như các hợp đồng cung cấp dịch vụ giữa 2 công ty; hợp đồng bán hàng xuất khẩu…
Các loại hợp đồng kinh doanh thương mại phổ biến hiện nay được chia thành 3 loại, như sau:
- Hợp đồng mua bán: là loại hợp đồng không có yếu tố quốc tế; hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (gồm xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, chuyển khẩu) và hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa (hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn).
- Hợp đồng dịch vụ: là loại hợp đồng cung ứng dịch vụ liên quan đến mua bán hàng hóa (gồm hợp đồng trong các xúc tiến thương mại, trung gian thương mại, các hoạt động thương mại khác) và các hợp đồng cung ứng dịch vụ chuyên ngành (như hợp đồng dịch vụ tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, du lịch,…).
- Hợp đồng trong hoạt động đầu tư đặc thù khác: điển hình là hợp đồng giao nhận thầu xây dựng, hợp đồng chuyển nhượng dự án khu đô thị mới, dự án hạ tầng kỹ thuật công nghiệp, nhà ở…).
Điều 10 đến Điều 15 của Luật Thương mại năm 2005 quy định 6 nguyên tắc cơ bản khi thực hiện các hoạt động thương mại, cũng như khi ký kết và thực hiện hợp đồng thương mại như sau: Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của thương nhân trong hoạt động thương mại; Nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong hoạt động thương mại; Nguyên tắc áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại được thiết lập giữa các bên; Nguyên tắc áp dụng tập quán trong hoạt động thương mại; Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng; Nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại.
3. Các đặc điểm pháp lý của hợp đồng thương mại
Hợp đồng thương mại là những hợp đồng riêng trong lĩnh vực thương mại. Khi thỏa mãn các điều kiện về chủ thể, mục đích và hình thức hợp đồng thì hợp đồng thương mại mang tính chất của một hợp đồng kinh tế. Các đặc điểm pháp lý của hợp đồng thương mại bao gồm: chủ thể, đối tượng và hình thức của hợp đồng.
3.1. Chủ thể của hợp đồng thương mại
Căn cứ theo Luật Thương mại 2005, chủ thể của hợp đồng thương mại là thương nhân, có thể là tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại độc lập, có giấy phép kinh doanh, cá nhân hoặc tổ chức khác có hoạt động liên quan đến thương mại. Thương nhân là chủ thể của hợp đồng thương mại có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài (trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế). Ngoài chủ thể là thương nhân, các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng thương mại trong những trường hợp pháp luật quy định cụ thể.
3.2. Đối tượng của hợp đồng thương mại
Đối tượng của hợp đồng thương mại chính là hàng hóa các bên sẽ mua bán với nhau hoặc công việc, dịch vụ mà một bên sẽ thực hiện, cung cấp cho bên còn lại. Các bên sẽ nêu cụ thể thông tin có liên quan của hàng hóa gồm: chủng loại hàng hóa, nguồn gốc xuất xứ, số lượng, khối lượng, chất lượng, đặc điểm kỹ thuật,… Trong trường hợp đối tượng của hợp đồng thương mại là thực hiện công việc hay cung ứng dịch vụ, các bên cần quy định rõ công việc/dịch vụ này là gì, những công việc/dịch vụ nào được xem là ngoài phạm vi và sẽ tính thêm phí, cách thức cung cấp ra sao, do ai thực hiện, thực hiện vào thời điểm nào, tại địa điểm nào,… Trong trường hợp đối tượng của hợp đồng thương mại là hàng hóa, tùy thuộc hàng hóa mà các bên mua bán là hàng hóa đặc định (ví dụ như 01 tài sản cụ thể nào đó) hoặc cùng loại (chẳng hạn như hàng hóa sản xuất hàng loạt).
3.3. Hình thức của hợp đồng thương mại
Điều 24 Luật Thương mại 2005 quy định: Hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó. Ngoài ra, Luật Thương mại 2005 cũng cho phép thay thế hình thức văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương, bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
3.4. Nội dung của hợp đồng thương mại
Nội dung của hợp đồng thương mại là tổng hợp tất cả các điều khoản các bên tham gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận với nhau. Các điều khoản này bao gồm quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên khi tham gia. Pháp luật đề cao sự tự do thỏa thuận của các bên, tuy nhiên nội dung của hợp đồng cũng phải đủ các điều khoản cơ bản và đúng với quy định pháp luật. Một số nội dung cần có trong hợp đồng thương mại như: Đối tượng của hợp đồng: là tài sản hiện hành hoặc tài sản được hình thành trong tương lai, các công việc được làm hoặc không được làm; Số lượng, chất lượng của đối tượng hợp đồng; Giá cả, phương thức thanh toán, thời gian thanh toán, địa điểm thanh toán; Thời gian, địa điểm thực hiện hợp đồng; Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng; Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; Các điều khoản phạt vi phạm hợp đồng; và Các nội dung khác. Tùy theo tính chất của từng loại hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận tất cả các điều khoản mà hai bên cảm thấy cần thiết hoặc có thể bổ sung thêm điều khoản mới hoặc bỏ đi. Ngoài ra, để làm rõ nội dung của hợp đồng, các bên có thể lập thêm phụ lục hợp đồng.
4. Những quy định của pháp luật trong chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thương mại
4.1. Về Nguyên tắc giao kết hợp đồng thương mại
Theo Bộ luật Dân sự 2015 về giao kết hợp đồng thương mại, khi thực hiện việc giao kết hợp đồng thương mại phải đảm bảo các nguyên tắc sau đây:
Thứ nhất, tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái với các quy định của luật cũng như đạo đức xã hội. Đây là nguyên tắc được thể hiện trong hợp đồng dân sự nói chung và hợp đồng thương mại nói riêng, các bên được quyền thể hiện ý chí, có quyền giao kết hay không giao kết hợp đồng, có quyền đưa ra các điều khoản khác trong hợp đồng để hai bên đàm phán. Tuy nhiên, những nội dung cơ bản trong hợp đồng không được trái với các quy định của luật, cũng như liên quan đến vấn đề đạo đức xã hội.
Thứ hai, các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng phải tự nguyện, thiện chí, trung thực và trên cơ sở hai bên đều có lợi. Mục đích cuối cùng của các bên tham gia vào hợp đồng thương mại nhằm tìm kiếm lợi nhuận nên các chủ thể phải tiến hành đàm phán về những điều khoản sao cho có lợi cho mình nhất. Tuy nhiên, về tính sinh lợi giữa các chủ thể phải dựa vào sự trung thực, tự nguyện và thiện chí không được bên nào đe dọa hoặc dùng những hoạt động khác như lừa dối, cưỡng ép bên kia để giao kết hợp đồng. Một trong các trường hợp để tuyên bố hợp đồng vô hiệu đó chính là sự lừa dối, đe dọa, cũng như các hoạt động khác dẫn đến việc giao kết hợp đồng trái ý muốn của bên kia nên các bên phải xem xét về giá trị tính trung thực, phải thiện chí nhằm hướng đến tìm kiếm lợi nhuận cho các bên.
4.2. Về Thủ tục giao kết hợp đồng
Thứ nhất, đề nghị giao kết hợp đồng thương mại. Đề nghị giao kết hợp đồng có bản chất là hoạt động pháp lý đơn phương của một chủ thể, có nội dung bày tỏ ý định giao kết hợp đồng với chủ thể khác theo những điều kiện xác định. Tại khoản 1 Điều 386 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là bên được đề nghị)”. Đề nghị giao kết hợp đồng được hiểu là một bên đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng với các bên còn lại, với mong muốn xác lập một hợp đồng. Đề nghị giao kết hợp đồng là một phần của quá trình ký kết hợp đồng.
Chủ thể đề nghị có quyền gửi đề nghị đến một hay nhiều chủ thể mà mình mong muốn giao kết, bên đề nghị có quyền đưa ra một thời gian cụ thể để bên được đề nghị biết được thời điểm có hiệu lực của đề nghị. Nếu trong trường hợp lời đề nghị không ghi rõ về thời điểm có hiệu lực thì thời điểm có hiệu lực của đề nghị được tính từ ngày bên được đề nghị nhận được đề nghị đó. Căn cứ xác định bên được đề nghị đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng là: (i) đề nghị được chuyển đến nơi cư trú (bên được đề nghị là cá nhân) hoặc trụ sở của bên được đề nghị (trường hợp bên được đề nghị là pháp nhân); (ii) đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị; (iii) bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các phương thức khác. Trong quá trình chờ đợi kết quả chấp nhận đề nghị của bên được đề nghị, người đề nghị có quyền rút lại đề nghị nếu trong đề nghị có nêu rõ quyền rút lại đề nghị hoặc bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị, lúc này thì đề nghị sẽ không có giá trị pháp lý.
Đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp: (i) bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận; (ii) hết thời hạn trả lời chấp nhận; (iii) thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực; (iv) thông báo về việc hủy bỏ đề nghị có hiệu lực; (v) theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên nhận được đề nghị trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời.
Thứ hai, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thương mại. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thương mại là sự trả lời của bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị. Điều kiện này đòi hỏi bên được đề nghị phải chấp nhận toàn bộ, tuyệt đối và vô điều kiện đối với những nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng cuối cùng. Trong trường hợp bên được đề nghị đưa ra chấp nhận nhưng có sửa đổi hoặc bổ sung so với đề nghị giao kết thì chấp nhận đó có thể được xem là một đề nghị giao kết hợp đồng mới do bên được đề nghị đưa ra. Hợp đồng chỉ chính thức được giao kết khi một bên chấp nhận toàn bộ và trọn vẹn tất cả các nội dung trong đề nghị giao kết của bên kia mà không đưa ra thêm bất kỳ sửa đổi hoặc bổ sung nào. Theo Điều 394 Bộ luật Dân sự 2015, thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng được xác định khác nhau trong các trường hợp sau:
Một là, nếu trong trường hợp bên đề nghị có ấn định về thời hạn trả lời thì việc trả lời chỉ có hiệu lực trong thời hạn mà đề nghị đã nêu. Nếu quá thời hạn đó, bên nhận đề nghị mới trả lời việc chấp nhận đề nghị thì việc trả lời chấp nhận đề nghị đó được xem là lời đề nghị mới và bên đề nghị có quyền từ chối hoặc chấp nhận việc trả lời đồng ý của bên được đề nghị. Nếu vì lý do khách quan, sự kiện bất khả kháng, việc chấp nhận đề nghị đến trễ so với thời hạn mà bên đề nghị biết hoặc phải biết thì thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không đồng ý với chấp nhận đó của bên được đề nghị. Tuy nhiên trên thực tế, để chứng minh đó là sự kiện bất khả kháng và buộc bên đề nghị phải biết gặp rất nhiều khó khăn, nếu vấn đề chứng minh không minh bạch, rõ ràng thì vấn đề xảy ra tranh chấp là không tránh khỏi.
Hai là, đối với trường hợp bên đề nghị trực tiếp trao đổi với nhau bằng lời nói, bằng điện thoại thì bên được đề nghị phải trả lời ngay có hay không việc chấp nhận đề nghị đó; nếu các bên thống nhất về thời gian trả lời thì bên đề nghị cũng có quyền rút lại lời đề nghị trong thời gian hẹn trả lời. Tuy nhiên, việc rút lại đề nghị phải đến trước hoặc cùng thời điểm với thông báo trả lời chấp nhận đề nghị của bên được đề nghị. Sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên. Trong trường hợp chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thông qua sự im lặng, pháp luật quy định rằng về nguyên tắc sự thỏa thuận của các bên phải được thể hiện ra bên ngoài, do vậy sự im lặng không được đương nhiên hiểu là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên.
4.3. Về Thời điểm giao kết hợp đồng
Về nguyên tắc chung, hợp đồng thương mại được giao kết vào thời điểm các bên đạt được sự thỏa thuận. Thời điểm giao kết hợp đồng được quy định khác nhau phụ thuộc vào cách thức giao kết và hình thức của hợp đồng. Theo khoản 3 Điều 400 Bộ luật Dân sự 2015, thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Theo khoản 4 Điều 400 Bộ luật Dân sự 2015, đối với hợp đồng giao kết bằng văn bản, thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản. Bộ luật Dân sự 2015 không quy định các bên cần ký vào cùng một văn bản, do vậy có thể suy luận là các bên có thể ký vào cùng một bản hoặc ký vào nhiều bản khác nhau của hợp đồng. Trên thực tế, nếu các bên giao kết trực tiếp và ký vào chung một bản của hợp đồng thì các bên thông thường ký vào hợp đồng trong cùng một ngày; nếu các bên ký vào nhiều bản khác nhau của hợp đồng thì các bên thông thường ký hợp đồng vào các ngày khác nhau (ví dụ khi các bên ở các địa điểm và múi giờ khác nhau) và hợp đồng được giao kết vào ngày bên cuối cùng ký vào hợp đồng. Đối với trường hợp, hợp đồng được giao kết bằng phương thức đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, thời điểm giao kết là thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận đề nghị giao kết. Như trình bày ở trên, sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng của thời hạn đó.
5. Kết luận
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thương mại chính là thể hiện ý chí của bên chấp nhận đề nghị và nó tồn tại ngay sau khi có đề nghị giao kết hợp đồng thương mại, được thực hiện bởi chủ thể của chấp nhận giao kết. Vì vậy, chủ thể của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thương mại được xem là một nội dung cơ bản quyết định đến việc có hay không sự tồn tại của hợp đồng. Theo đó, bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận, là kết quả của ý chí sự thống nhất giữa các bên và chịu sự điều chỉnh của hệ thống văn bản pháp luật gồm các pháp luật quốc gia, điều ước quốc tế và việc tuân thủ là nguyên tắc cơ bản trong giao kết hợp đồng.
Xác định thời điểm có hiệu lực của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thương mại mang một ý nghĩa quan trọng, đảm bảo quyền và nghĩa vụ các chủ thể trong việc chấp nhận đề nghị giao kết và tính hiệu lực của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thương mại. Việc xác định thời điểm chính xác bên được đề nghị có thể chấp nhận đề nghị từ đó làm cơ sở ràng buộc trách nhiệm pháp lý và nghĩa vụ dân sự với bên đề nghị, đồng thời qua đó xác định trước khi đề nghị có hiệu lực, bên đề nghị có quyền rút lại đề nghị giao kết hợp đồng thương mại. Đây là những nội dung rất quan trọng các bên cần phải nghiên cứu kĩ trước khi đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thương mại. Không chỉ tìm hiểu kỹ về luật pháp của Việt Nam mà còn phải nghiên cứu kỹ các điều ước quốc tế Việt Nam đã tham gia tại các hiệp định thương mại và luật pháp các nước khi thực hiện ký kết các hợp đồng xuyên biên giới trong giai đoạn Việt Nam đang hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2005). Luật Thương mại 2005.
2. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2015). Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Đỗ Văn Đại (2018). Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Tập 1, NXB Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam.
4. Trường Đại học Luật Hà Nội (2022). Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Tập 1, NXB Tư pháp, trang 52-54.
5. Neil Andrews, (2011). Contract Law, Cambridge University Press.
6. Bryan A. Garner (editor in chief) Black’s Law Dictionary, 9th edition.
Legal framework for accepting offers in commercial contracts amid global economic integration
Nguyen Minh Duc
Faculty of Accounting - Finance, Van Hien University
Abstract:
As Vietnam engages in and negotiates free trade agreements, understanding the legal principles governing the acceptance of offers in commercial contracts becomes increasingly important. A clear grasp of these principles enables businesses to negotiate, agree upon, and enter into contracts voluntarily, fairly, and transparently while ensuring compliance with legal provisions, particularly in transactions involving international partners. This paper examines the legal characteristics of commercial contracts, the principles guiding contract formation, and the procedures involved. The findings aim to provide useful insights for government agencies, companies, and enterprises to enhance their contractual practices in the context of global trade integration.
Keywords: acceptance of proposal to enter into commercial contract, principles, law, the Civil Code 2015, the Commercial Law 2005.
[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 5 tháng 2 năm 2025]